Một nghiên cứu trên gần 1.000 người bị đột quỵ cho thấy những người tập thể dục nhẹ 4 giờ mỗi tuần hoặc 2-3 giờ mỗi tuần hoạt động vừa phải ít bị đột quỵ hơn những người không tập thể dục.
Các nhà nghiên cứu đã định nghĩa: Hoạt động nhẹ là đi bộ với tốc độ bình thường và hoạt động vừa phải là đi bộ nhanh, bơi lội và chạy.
Tác giả nghiên cứu Katharina S. Sunnerhagen thuộc Đại học Gothenburg ở Thụy Điển cho biết: “Tập thể dục có lợi cho sức khỏe theo nhiều cách, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng thậm chí chỉ cần tham gia một lượng nhỏ hoạt động thể chất mỗi tuần cũng có thể có tác động lớn sau này bởi có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của một cơn đột quỵ ”.
Tuy nhiên, bà và các đồng nghiệp nhấn mạnh rằng: Do bản chất của nghiên cứu, những phát hiện của họ không chứng minh rằng hoạt động thể chất thực sự làm giảm mức độ nghiêm trọng của đột quỵ - chỉ có một mối liên hệ đáng kể giữa chúng.
Bình luận về nghiên cứu, Nicole Spartano và Julie Bernhardt, cả hai trường Đại học Y khoa Boston ở Massachusetts, cho biết rằng trong khi các cơ chế cơ bản chưa được hiểu đầy đủ, tập thể dục có thể giúp duy trì hệ thống mạch máu phức tạp của não.
Một nguyên nhân chính gây ra tàn tật
Đột quỵ là một nguyên nhân chính gây ra tàn tật đáng kể ở người lớn. Ở Hoa Kỳ, nơi có khoảng 795.000 người bị đột quỵ hàng năm, nó là nguyên nhân thứ năm gây tử vong.
Có 2 loại đột quỵ là đột quỵ do thiếu máu và đột quỵ do xuất huyết
- Đột quỵ do thiếu máu cục bộ: đây là tình trạng do các cục máu đông làm tắc nghẽn động mạch, hoặc co thắt động mạch gây cản trở quá trình máu lưu thông lên não.
- Đột quỵ do xuất huyết: là tình trạng mạch máu cấp máu cho não bị vỡ khiến máu chảy ồ ạt gây xuất huyết não.
Cả hai loại đột quỵ đều ngăn không cho oxy và chất dinh dưỡng đến các tế bào não. Trong vòng vài phút nếu không được cung cấp đủ máu các tế bào não sẽ bắt đầu chết.
Di chứng liệt dây thần kinh 7 trung ương bên trái sau đột quỵ não. Nguồn ảnh: skgold.vn Mức độ di chứng có thể xảy ra sau một cơn đột quỵ phụ thuộc vào vị trí tổn thương và số lượng tế bào mất chức năng. Ví dụ, nó có thể dẫn đến khó khăn trong việc đi lại, nói chuyện và suy nghĩ.
Dữ liệu đến từ các cơ quan đăng ký và tự báo cáo
Dữ liệu nghiên cứu đến từ 925 người – trung bình 73 tuổi - ở Thụy Điển từng bị đột quỵ. Sunnerhagen và các đồng nghiệp đã xác định chúng từ các sổ đăng ký đột quỵ cung cấp thông tin về mức độ nghiêm trọng của đột quỵ.
Các triệu chứng như cử động mặt, cánh tay và mắt, cũng như khả năng ngôn ngữ và mức độ ý thức, giúp xác định mức độ nghiêm trọng. Dựa trên điều này, 80% nhóm nghiên cứu được phân loại là đã bị đột quỵ “nhẹ”.
Các cá nhân cũng đã trả lời các câu hỏi sau khi đột quỵ về mức độ mà họ tham gia vào các hoạt động thể chất trong thời gian giải trí trong giai đoạn trước khi đột quỵ. Khi cần thiết, nhóm nghiên cứu có thể thu thập thông tin từ gia đình của người bệnh.
Đi bộ ít nhất 4 giờ mỗi tuần được coi là hoạt động nhẹ nhàng, trong khi các bài tập thể dục cường độ cao hơn, chẳng hạn như bơi lội, chạy và đi bộ nhanh trong 2-3 giờ mỗi tuần, được xếp vào hoạt động vừa phải.
Trong bối cảnh này, 52% người tham gia nghiên cứu không hoạt động trong thời gian bị đột quỵ.
Các nghiên cứu dựa trên mức độ hoạt động thể chất tự báo cáo, đây là điểm yếu hoặc hạn chế có thể có của nghiên cứu. Trong trường hợp này, các nhà nghiên cứu đặc biệt thận trọng về phát hiện của họ vì đột quỵ có thể ảnh hưởng đến trí nhớ và các câu hỏi được đặt ra cho những người sau khi họ bị đột quỵ.
Tập thể dục giúp giảm nguy cơ đột quỵ ở người trẻ.
Phân tích cho thấy những người có mức độ hoạt động thể chất từ nhẹ đến trung bình trong thời gian dẫn đến đột quỵ, họ có gấp đôi cơ hội bị đột quỵ nhẹ so với những người không hoạt động.
Trong số 59 người có mức độ hoạt động thể chất trong giai đoạn trước khi bị đột quỵ ở mức trung bình, 53 người (89%) bị đột quỵ nhẹ. Trong số 384 người có mức độ hoạt động thể chất nhẹ nhàng, 330 người (85%) bị đột quỵ nhẹ. Trong số 481 người không hoạt động, 354 người (73%) bị đột quỵ nhẹ.
Tuy nhiên, khi các nhà nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của tuổi trẻ lên mức độ nghiêm trọng của đột quỵ, họ thấy rằng: Hoạt động thể chất chỉ chiếm 6,8% sự khác biệt giữa nhóm hoạt động tích cực và không hoạt động.
Nhóm nghiên cứu gợi ý rằng hiện nay nên nghiên cứu thêm để làm rõ mức độ tập thể dục có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của đột quỵ.
Sunnerhagen cũng khuyên rằng “nên theo dõi tình trạng không hoạt động thể chất như một yếu tố nguy cơ có thể gây ra đột quỵ nặng”.
Spartano lưu ý rằng các nghiên cứu trên động vật cho thấy: Hoạt động thể chất giúp bảo vệ mạng lưới mạch máu phức tạp của não bằng cách tăng cường khả năng cho một số động mạch cung cấp máu cho các vùng tương tự của não.
“ Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hoạt động thể chất có thể có tác dụng bảo vệ não và nghiên cứu của chúng tôi đã bổ sung thêm bằng chứng đó ” Katharina S. Sunnerhagen cho biết.
Xem thêm: