Khối u có thể di căn dọc theo thành dạ dày hoặc có thể phát triển trực tiếp xuyên qua thành và xâm lấn vào máu hoặc hệ thống bạch huyết. Khi vượt ra ngoài dạ dày, tế bào ung thư có thể di căn sang các cơ quan khác của cơ thể.
Phân loại bệnh
Theo giải phẫu bệnh, ung thư dạ dày được phân loại dựa vào loại mô bệnh học, gồm các loại sau:
- Adenocarcinomas (ung thư biểu mô tuyến) - loại phổ biến nhất : bắt đầu từ các tế bào biểu mô ở niêm mạc dạ dày.
- Lymphomas: phát triển từ các tế bào bạch huyết, một loại tế bào máu liên quan đến hệ thống miễn dịch.
- Sarcoma: liên quan đến mô liên kết (cơ, mỡ hoặc mạch máu).
- Các loại khác bao gồm carcinoid, ung thư biểu mô tế bào nhỏ và ung thư biểu mô tế bào vảy.
- Ung thư di căn từ ung thư vú, u ác tính và các vị trí ung thư nguyên phát khác, cũng được tìm thấy trong dạ dày.
Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây bệnh
Số ca ung thư dạ dày đã giảm trong 60 năm qua. Mặc dù bệnh này không nằm trong số các bệnh ung thư phổ biến nhất ở Mỹ, nhưng vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở các nơi khác trên thế giới.
Nguyên nhân chính xác của ung thư dạ dày vẫn chưa được biết, nhưng hầu hết nguyên nhân là do tiếp xúc với các tác nhân gây ung thư khác nhau, đặc biệt là nitrat. Nitrat là những chất được tìm thấy trong thực phẩm chế biến sẵn (đặc biệt là các sản phẩm từ thịt) được sấy khô, hun khói, muối hoặc ngâm. Các chất gây ung thư sẽ gây ra lỗi trong mã di truyền kiểm soát sự phát triển và sửa chữa của tế bào.
Các loại thịt muối, hun khói chứa nhiều nitrat tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày (nguồn ảnh: healthline.com)Các bệnh khác cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày, bao gồm:
- Viêm dạ dày (do vi khuẩn H. pylori)
- Thiếu máu ác tính (do thiếu vitamin B12)
- Teo dạ dày, do mất khối lượng tế bào thành của niêm mạc dạ dày và từ đó giảm sản xuất axit và giảm axit ascorbic (vitamin C)
- Polyp dạ dày
- Loét dạ dày mãn tính
- Tiền sử gia đình bị ung thư dạ dày
- Tiền sử phẫu thuật dạ dày nguyên nhân do các bệnh không phải ung thư như viêm loét dạ dày tá tràng
- Nhóm máu A
- Tình trạng tiền ác tính như chuyển sản ruột
- Có bất thường về di truyền
- Các yếu tố di truyền như bệnh đa polyp tuyến gia đình, bệnh ung thư đại trực tràng không đa polyp di truyền (hội chứng Lynch) và hội chứng Peutz-Jeghers
Nhiễm trùng vi khuẩn Helicobacter pylori (H. pylori) của niêm mạc dạ dày có liên quan đến hai loại ung thư dạ dày là ung thư Lymphoma và ung thư biểu mô tuyến. Vi khuẩn H. pylori là một loại vi khuẩn lây nhiễm vào niêm mạc dạ dày và gây viêm loét mãn tính. Nguy cơ phát triển ung thư khi bị nhiễm vi khuẩn này là thấp. Vi khuẩn này có thể được tìm thấy ở 2/3 dân số trên thế giới. Ở những người bị nhiễm vi khuẩn này, nguy cơ mắc ung thư dạ dày được cho là tăng gấp 6 lần so với những người không bị nhiễm.
Vi khuẩn H. pylori gây viêm loét dạ dày tá tràng và có thể dẫn tới ung thư dạ dày (nguồn ảnh: drozdogan.com)Ở những người sử dụng thuốc lá hoặc uống đồ uống có cồn thường xuyên cũng làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.
Những người làm việc trong một số ngành nhất định cũng có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn, bao gồm những người trong ngành khai thác mỏ, kim loại và cao su (phơi nhiễm nghề nghiệp).
Ung thư dạ dày thường được phát hiện ở những người trong độ tuổi từ 60 đến 80 tuổi. Bệnh phổ biến hơn ở Nhật Bản, Hàn Quốc, một phần Đông Âu và Mỹ Latinh hơn là ở Mỹ và Canada. Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới WHO 2018, ung thư dạ dày tại Việt Nam đang xếp thứ 3 (chiếm 10%), sau ung thư gan, ung thư phổi với trên 17.500 ca mắc mới, trong đó có hơn 15.000 ca tử vong (chiếm 86%).
Bệnh ung thư dạ dày có liên quan đến chế độ ăn uống phổ biến ở những quốc gia này, bao gồm thực phẩm chứa nhiều nitrat, muối - đặc biệt là các loại thịt và cá muối hay hun khói. Ăn quá nhiều muối làm tổn thương niêm mạc dạ dày và tăng khả năng mắc bệnh ung thư.
Nếu ung thư dạ dày được phát hiện sớm ở giai đoạn đầu thì việc điều trị sẽ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, bệnh này thường được chẩn đoán ở các giai đoạn sau. Thật không may, tiên lượng cho bệnh sẽ kém nếu bệnh ung thư đã ở giai đoạn nặng.
Xem thêm :