Các căn nguyên có thể gây liệt dây thần kinh mặt là gì?
Khoảng một nửa số trường hợp liệt dây thần kinh mặt là vô căn. Liệt dây thần kinh mặt hiện được coi là một hội chứng lâm sàng với chẩn đoán phân biệt riêng và thuật ngữ "liệt Bell" không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với liệt dây thần kinh mặt vô căn.
Trước đây, cơ chế bệnh liệt dây thần kinh mặt vô căn được cho là do rối loạn miễn dịch hoặc virus. Tuy nhiên hiện nay, các bằng chứng cho thấy chắc chắn hơn rằng các nguyên nhân phổ biến là do vi rút gây ra gồm:
- Nhiễm vi rút Herpes simplex (gặp phổ biến nhất)
- Herpes zoster (có thể là xếp thứ 2)
- Các nguyên nhân do vi rút khác ví dụ như: coxsackievirus, cytomegalovirus , adenovirus và Epstein-Barr , vi rút quai bị, rubella và cúm B.
- Kết quả cuối cùng đều làm dây thần kinh bị sung to lên khiến nó bị chèn ép trên đường đi ra khỏi não( thường là phần mê cung của ống mặt), dẫn đến thiếu máu nuôi dưỡng cục bộ và biểu hiện liệt.
Trong một số bệnh (ví dụ bệnh tiểu đường, bệnh Lyme, bệnh sarcoidosis) người ta cũng thấy có thể có liệt dây thần kinh mặt.
Sinh lý bệnh của liệt dây thần kinh mặt (thần kinh sọ VII) là gì?

Về chi phối thần kinh cho các cơ mặt chia thành: ở ngoại vi là nhánh trực tiếp từ dây thần kinh sọ VII và trung ương bởi nhánh vận động từ vỏ não bên đối diện. Thêm một điều nữa là đối với nửa mặt trên (ví dụ như cơ trán) sẽ được chi phối từ cả 2 bên bán cầu não còn chỉ có một bên đối với mặt dưới. Kết quả là các tổn thương ở cả trung tâm và ngoại vi đều có xu hướng làm liệt mặt dưới. Tóm lại, ví dụ trong đột quỵ là tổn thương tại trung ương ở một bên, thường liệt nửa mặt dưới, còn trong liệt dây VII ngoại biên sẽ liệt cả nửa mặt trên.
Các triệu chứng và dấu hiệu của liệt dây thần kinh mặt là gì?
Bạn có thể thấy tự nhiên đau sau tai xảy ra trước liệt mặt, hoặc thường kèm theo liệt hoàn toàn nửa người, phát triển trong vòng vài giờ và thường nhiều nhất trong vòng 48 đến VII2 giờ.
Ngoài ra, bệnh nhân có thể cảm giác thấy tê hoặc nặng ở mặt. Bên bị liệt trở nên bì bì và vô cảm; các nếp nhăn trán, chớp mắt, nhăn mặt bị hạn chế hoặc không có. Trong một số trường hợp nặng hơn, có xuất hiện vết nứt lòng bàn tay lan rộng và mắt không nhắm kín lại được, gây kích ứng kết mạc và làm khô giác mạc.
Thông thường, khám cảm giác mặt bình thường, nhưng ống tai ngoài và một phần nhỏ sau tai (trên xương chũm) có thể bị đau khi chạm vào. Nếu tổn thương dây thần kinh gần hạch thì khả năng tiết nước bọt, vị giác và chảy nước mắt có thể bị suy giảm và cũng có thể tăng tiết nước bọt.
Chẩn đoán bệnh liệt dây thần kinh mặt như thế nào?
- Đánh giá lâm sàng bệnh nhân
- Chụp X-quang hoặc CT ngực và đo nồng độ men chuyển (ACE) trong huyết thanh để kiểm tra bệnh sarcoidosis.
- Chụp MRI nếu triệu chứng khởi phát từ từ hoặc có các biểu hiện cả trên những dây thần kinh khác.
Liệt dây thần kinh mặt được chẩn đoán dựa trên đánh giá lâm sàng, không có xét nghiệm chẩn đoán đặc hiệu cụ thể.
Liệt dây thần kinh mặt được chẩn đoán phân biệt với một tổn thương dây thần kinh tại trung ương (ví dụ, do đột quỵ bán cầu hoặc khối u chèn ép dây thần kinh) là nó gây liệt chủ yếu ở mặt dưới và làm mất cơ nhăn trán. Trái lại, bệnh nhân có tổn thương trung ương thường vẫn có thể nhíu mày, nhăn trán và nhắm chặt mắt.
Trên lâm sàng, bác sĩ cũng phải phân biệt liệt dây thần kinh mặt vô căn với các bệnh khác cũng gây liệt thần kinh mặt ngoại biên dựa trên các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng của các căn nguyên bao gồm:
- Herpes zoster oticus có mụn rộp vùng kín, hội chứng Ramsay Hunt.
- Viêm tai giữa hoặc nhiễm trùng xương chũm
- Sarcoidosis
- Bệnh lyme
- Gãy xương bàn đạp
- Xâm lấn dây thần kinh trong ung thư hoặc bệnh bạch cầu
- Viêm màng não mãn tính
- U góc tiểu não
- Bệnh tiểu đường
Ngoài ra, thời gian xuất hiện các bệnh khác gây ra liệt dây thần kinh mặt ngoại biên thường phát triển chậm hơn so với liệt dây thần kinh mặt vô căn. Do đó, nếu bệnh nhân có bất kỳ triệu chứng hoặc dấu hiệu thần kinh nào khác hoặc nếu các triệu chứng tiến triển dần dần, thì nên thực hiện chụp MRI để tìm nguyên nhân điểu trị.
Trong bệnh liệt dây thần kinh mặt vô căn, MRI cũng có thể cho thấy sự tăng cường độ tương phản của dây thần kinh mặt tại hoặc gần hạch hoặc dọc theo toàn bộ đường đi của dây thần kinh. Tuy nhiên, sự tăng cường của nó có thể phản ánh các nguyên nhân khác, chẳng hạn như khối u màng não. Nếu tình trạng tê liệt tiến triển trong nhiều tuần đến vài tháng, khả năng cao là khối u (ví dụ, thường gặp nhất là schwannoma). MRI cũng có thể giúp loại trừ các rối loạn cấu trúc khác gây ra liệt dây thần kinh mặt.
Trên hình ảnh CT, thường là âm tính trong bệnh liệt Bell, tuy nhiên có giá trị nhiều hơn khi nghi ngờ có gãy xương hoặc nếu không thể chụp MRI ngay lập tức hoặc đang nghĩ đến đột quỵ.
Ngoài ra, các xét nghiệm huyết thanh cấp tính và điều trị cho bệnh Lyme được thực hiện nếu bệnh nhân đã ở trong khu vực địa lý dịch tễ có lưu hành của bọ ve và bệnh Lyme.
Đối với tất cả bệnh nhân, chụp X-quang phổi hoặc CT được thực hiện và đo ACEI huyết thanh để kiểm tra bệnh sarcoidosis. Đường máu được đo để tầm soát bệnh tiểu đường.
Tiên lượng của bệnh nhân liệt dây thần kinh mặt là như thế nào?
Trong liệt dây thần kinh mặt vô căn, mức độ tổn thương dây thần kinh quyết định tiên lượng. Nếu một số chức năng vẫn còn, quá trình hồi phục hoàn toàn thường xảy ra trong vòng vài tháng. Các nghiên cứu về sự dẫn truyền thần kinh và đo điện cơ được làm để giúp dự đoán kết quả. Kết luận đưa ra là khả năng phục hồi hoàn toàn sau khi liệt toàn bộ là 90% nếu các nhánh thần kinh ở mặt vẫn đáp ứng đối với kích thích điện cực đại và chỉ khoảng 20% nếu không có đáp ứng kích thích điện.
Sự hồi phục lại của các sợi thần kinh có thể bị sai lệch, ví dụ các cơ mặt dưới bị co khi kích thích các sợi quanh mắt hoặc ngược lại. Việc sử dụng kích thích cơ mặt lâu dài có thể dẫn đến co cứng.
Có những phương pháp nào giúp điều trị cho bệnh nhân liệt dây thần kinh mặt.
- Bảo vệ giác mạc.
- Corticosteroid trong liệt dây thần kinh mặt vô căn
Khô giác mạc phải được phòng ngừa bằng cách sử dụng thường xuyên nước mắt tự nhiên, nước muối đẳng trương, hoặc thuốc nhỏ methylcellulose hay bằng cách sử dụng liên tục băng hoặc miếng dán để giúp nhắm mắt, đặc biệt là trong khi ngủ.

Đối với liệt dây thần kinh mặt vô căn, corticosteroid nên được bắt đầu trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát, sẽ giúp phục hồi nhanh hơn.
Liều dùng có thể là Prednisone 60- 80 mg uống mỗi ngày một lần trong 1 tuần, sau đó giảm dần trong tuần thứ 2.
Thuốc kháng vi-rút có hiệu quả chống lại vi-rút herpes simplex (ví dụ: valacyclovir 1 g uống 3 lần một ngày trong VII-10 ngày, famciclovir 500 mg uống 3 lần một ngày trong 5-10 ngày, acyclovir 400 mg uống 5 lần một ngày trong 10 ngày) đã được kê đơn. Tuy nhiên, trong nhưng nghiên cứu gần đây cho thấy rằng thuốc kháng vi-rút không mang lại lợi ích cho lắm.1
Những điểm chính trong bài viết
- Trong bệnh liệt dây thần kinh mặt, bệnh nhân không thể cử động cả nửa mặt; ngược lại, tổn thương dây thần kinh VII trung ương (ví dụ, do đột quỵ) ảnh hưởng chủ yếu đến nửa mặt dưới.
- Căn nguyên gây ra bệnh liệt dây thần kinh mặt vô căn ngày càng liên quan nhiều đến virus herpes.
- Chẩn đoán liệt mặt chủ yếu dựa trên lâm sàng, nhưng nếu khởi phát triệu chứng không cấp tính mà từ từ, ta nên tiến hành chụp MRI cho bệnh nhân để tìm căn nguyên.
- Corticosteroid nên được dùng sớm vì rất hữu ích cho bệnh liệt dây thần kinh mặt vô căn
- Thuốc kháng vi-rút có thể không mang lại lợi ích.
Xem thêm: