Nghiên cứu gần đây cho thấy có mối liên quan giữa COVID-19 và đột quỵ. ...


Đã có một số báo cáo trên các phương tiện truyền thông về mối liên hệ tiềm ẩn giữa đột quỵ và COVID-19, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi.

Bài viết này xem xét các bằng chứng cho đến nay và đưa ra lời khuyên cũng như thông tin về những việc cần làm nếu ai đó có các triệu chứng của COVID-19 hoặc đột quỵ.

COVID-19 có thể gây đột quỵ không?

Cho đến nay, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng COVID-19 có thể làm tăng nguy cơ bị huyết khối mạch máu. Huyết khối xảy ra khi cục máu đông hình thành và làm tắc nghẽn động mạch hoặc tĩnh mạch.

Những cục máu đông chặn dòng chảy trong mạch máu có thể gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng, bao gồm:

  • Nhồi máu cơ tim: khi cục máu đông chảy đến tim.
  • Đột quỵ: khi cục máu đông chảy đến não.
  • Cơn thiếu máu não thoáng qua (ministroke): khi cục máu đông chảy đến não gây các triệu chứng thoáng qua.
  • Thiếu máu cục bộ một chi: khi cục máu đông chặn việc cấp máu đến một chi.
  • Thuyên tắc phổi: khi cục máu đông di chuyển đến mạch máu ở phổi.

Theo các nghiên cứu này, những người nhiễm vi rút SARS-CoV-2 (COVID- 19) có phản ứng đông máu bất thường như một phản ứng viêm đối với vi rút. Điều này làm tăng nguy cơ hình thành cục máu đông. Khi cục máu đông di chuyển chặn động mạch nuôi của não, sẽ gây ra đột quỵ.

Cũng trong nghiên cứu này, các chuyên gia quan tâm về những người nhiễm COVID-19 có thể tăng nguy cơ bị đột quỵ. Theo Hiệp hội Đột quỵ Vương quốc Anh (the UK Stroke Association), những đối tượng này bao gồm:

  • Những người có các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến tim mạch, như tăng huyết áp, tiểu đường và bệnh tim,
  • Những người có các triệu chứng nghiêm trọng của COVID-19
  • Người Châu Á.

Theo một bài báo năm 2020, những người mắc COVID-19 có nguy cơ bị đột quỵ cao hơn những người bị cúm gấp 7,6 lần.

Một bài báo khác năm 2020 ghi lại rằng ở những khu vực tập trung đông người mắc bệnh COVID-19, tỷ lệ mắc đột quỵ ổn định hoặc gia tăng và dường như không có nguyên nhân điển hình.

Các nghiên cứu gần đây cho thấy, những người bị COVID-19 thể bệnh nặng có nhiều khả năng bị đột quỵ hơn so với những người có các triệu chứng nhẹ. 

Trong một nghiên cứu tại Vũ Hán năm 2020, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng gần 6% những người bị nhiễm trùng nặng có các biến chứng thần kinh, bao gồm đột quỵ, trong khi con số đó là dưới 1% ở những người bị nhiễm trùng nhẹ.

Nghiên cứu cũng cho thấy đột quỵ trên bệnh nhân mắc COVID-19 ảnh hưởng đến lứa tuổi trẻ hơn. Ba nghiên cứu riêng biệt từ New York, Paris, New York với Philadelphia cho thấy những người mắc COVID-19 bị đột quỵ trẻ hơn khoảng 15 tuổi, so với những người bị đột quỵ không mắc COVID-19.

Tuy nhiên, Hiệp hội Đột quỵ Vương quốc Anh chỉ ra rằng, những người lớn tuổi mắc COVID-19 vẫn có nhiều khả năng bị đột quỵ hơn những người trẻ tuổi mắc COVID-19.

Các triệu chứng đột quỵ

Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (the Centers for Disease Control and Prevention - CDC Hoa Kỳ), sau đây là những dấu hiệu và triệu chứng chính của đột quỵ, tất cả đều xuất hiện một cách đột ngột:

  • Tê hoặc yếu ở mặt, cánh tay hoặc chân, đặc biệt là một bên cơ thể.
  • Rối loạn ngôn ngữ, khó nói hoặc khó hiểu lời nói.
  • Khó nhìn từ một hoặc cả hai mắt, chóng mặt, mất thăng bằng hoặc giảm phối hợp.
  • Đau đầu dữ dội. 

Khuôn mặt của người bị đột quỵ khi cười miệng bị lệch về một bên. Theo nguồn: healthclevelandclinic.orgKhuôn mặt của người bị đột quỵ khi cười miệng bị lệch về một bên. Theo nguồn: healthclevelandclinic.orgNắm rõ từ viết tắt FAST giúp nhận diện người bị đột quỵ và giúp người bị đột quỵ được điều trị càng sớm càng tốt. Những người hỗ trợ người bệnh nên kiểm tra theo các hướng dẫn sau:

  • F – Face: Khuôn mặt: Yêu cầu người đó mỉm cười và kiểm tra xem khuôn mặt của họ có bị xệ xuống một bên hay không.
  • A – Arms: Cánh tay: Yêu cầu người đó giơ cả hai cánh tay lên và kiểm tra xem một cánh tay có bị rơi xuống dưới hay không.
  • S - Speech: Lời nói: Yêu cầu người đó lặp lại một cụm từ đơn giản và đánh giá câu nói có ngọng hoặc khó khăn không.
  • T – Time: Thời gian: Tiết kiệm thời gian và hành động nhanh chóng bằng cách liên hệ với các dịch vụ cấp cứu ngay lập tức.

Nếu các triệu chứng biến mất sau một thời gian, vẫn nên hỏi ý kiến bác sĩ để loại trừ tình trạng đột quỵ.

Các triệu chứng của COVID-19

Theo CDC Hoa Kỳ, các triệu chứng sau đây có thể xuất hiện từ 2 – 14 ngày sau khi tiếp xúc với COVID-19:

Một số triệu chứng của COVID-19: khó thở, ho, đau đầu, chảy nước mũi, sốt. Theo nguồn: mhealthfairview.orgMột số triệu chứng của COVID-19: khó thở, ho, đau đầu, chảy nước mũi, sốt. Theo nguồn: mhealthfairview.org
  •   Sốt hoặc ớn lạnh
  • Ho
  • Khó thở
  • Mỏi cơ hoặc nhức đầu
  • Mất vị giác hoặc khứu giác
  • Đau họng
  • Nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi
  • Buồn nôn hoặc nôn mửa
  • Tiêu chảy
Những người nghi ngờ nhiễm COVID-19 nên gọi cho bác sĩ, hoặc liên hệ đến cơ quan y tế gần nhất để được hướng dẫn.

Một người có các triệu chứng sau đây nên báo với cơ quan y tế khẩn cấp:

  • Khó thở
  • Đau hoặc tức ngực không đỡ
  • Lú lẫn
  • Bất tỉnh
  • Da, môi hoặc móng tay nhợt nhạt, xám hoặc xanh, tùy thuộc vào màu da

Lưu ý rằng các cơ quan y tế và các nhà khoa học trên thế giới đang liên tục sửa đổi các triệu chứng của COVID-19. Người dân nên theo sát các bản cập nhật mới nhất.

COVID-19 ảnh hưởng đến những người sau đột quỵ như thế nào?

Các chuyên gia đã lưu ý rằng tất cả những người sau đột quỵ và những người có các tình trạng thần kinh, chẳng hạn như chứng mất trí, dễ bị bệnh COVID-19 thể nặng hơn, làm những người này tăng nguy cơ:

  • Nhập viện
  • Chăm sóc trong phòng ICU
  • Đặt nội khí quản hoặc thở máy
  • Tử vong

Đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến điều trị sau khi bị đột quỵ như thế nào?

Ảnh hưởng của đại dịch có thể khiến một số người nhập viện vì đột quỵ tử vong sớm hơn bình thường. Họ cũng có thể khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ cấp cứu hoặc dịch vụ chăm sóc sau khi xuất viện. Điều này có thể ảnh hưởng đến các dịch vụ giúp phục hồi, như vật lý trị liệu và liệu pháp phục hồi chức năng thần kinh.

Tuy nhiên, họ vẫn cần nhận được sự hỗ trợ và điều trị từ nhóm chăm sóc sức khỏe hoặc trung tâm đột quỵ, với một kế hoạch chăm sóc chi tiết. Một số phương pháp điều trị có thể cần thực hiện tại nhà, hoặc thực hiện qua điện thoại hoặc cuộc gọi video.

Những người sau đột quỵ dễ bị mắc bệnh COVID-19 thể nặng. Do vậy, những người không mắc bệnh và những người chăm sóc họ, nên có các biện pháp phòng ngừa và cẩn thận hơn trong việc giữ gìn vệ sinh. Nên tránh xa  chất thải tiết, rửa tay và làm sạch các bề mặt, vật dụng của người bệnh thường xuyên. Một người sau đột quỵ cũng nên được tiêm phòng COVID-19.

Các chuyên gia sức khỏe khuyên rằng họ nên ở nhà bất cứ khi nào có thể. Những người sau đột quỵ có thể nhờ người khác làm những việc thiết yếu cần ra khỏi nhà, chẳng hạn như đi mua hàng tạp hóa hoặc mua thuốc. Họ cũng nên làm việc tại nhà nếu có thể và tránh tiếp xúc gần với mọi người.

Hơn nữa, việc đeo khẩu trang giúp bảo vệ bạn và những người xung quanh. Những người sau đột quỵ nên đeo khẩu trang khi ra ngoài đường và tránh những người không đeo.

Những người có tiền sử đột quỵ nên tiếp tục dùng thuốc và nói chuyện với bác sĩ về việc kiểm tra định kỳ một cách an toàn.

Bất kỳ ai có các triệu chứng của đột quỵ nên liên hệ với các dịch vụ cấp cứu ngay lập tức. Các bệnh viện đã phát triển các quy trình nghiêm ngặt để bảo vệ những người nhiễm COVID-19.

Kết luận

COVID-19 có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ ở một số đối tượng nhất định. Sự hiện diện của đại dịch cũng có thể làm tăng nguy cơ biến chứng và bệnh nặng ở những người sau đột quỵ, bất kể nguyên nhân gây ra đột quỵ của họ là gì.

Biết các triệu chứng của COVID-19 và các triệu chứng của đột quỵ sẽ giúp mọi người tiếp cận với phương pháp điều trị phù hợp nhanh hơn. Các tình trạng cấp cứu không bao giờ được trì hoãn vì COVID-19.

Xem thêm:

Tags:

Elite author
We always feel that we can do better and that our best piece is yet to be written.
Tất cả bài viết
BÀI VIẾT MỚI NHẤT