PH dạ dày là gì?
Sở dĩ pH dạ dày có tính axit là do lớp niêm mạc của nó tiết ra dịch vị có chứa axit clohydric (HCl). Khi dịch vị được tiết ra với pH thấp tới 0,8, nó ngay lập tức bị pha loãng trong lòng dạ dày và pH của nó tăng lên từ 1,5 đến 3,5. Nhờ natri bicarbonat trung hòa axit, pH dạ dày tăng lên 5,0 đến 6,0 khi dạ dày rỗng.
Có một quan niệm sai lầm phổ biến là axit trong dịch vị tiêu hóa protein. Thực chất, trong môi trường pH thấp, protein sẽ bộc lộ các liên kết peptit của chúng. Tính axit cũng sẽ hoạt hóa tiền enzym pepsinogen trở thành enzym pepsin và phá vỡ các liên kết peptit, tiêu hóa protein thành các axit amin.
Đo pH dạ dày như thế nào?
Các chuyên gia y tế sử dụng xét nghiệm phân tích axit dạ dày để đo pH dạ dày và các chất chứa trong dạ dày. Thông thường, xét nghiệm này được thực hiện sau một thời gian nhịn ăn để dạ dày chỉ chứa dịch mà không chứa thức ăn. Dịch trong dạ dày được lấy ra nhờ ống thông đưa qua miệng và thực quản vào dạ dày, dịch này được dùng để đo pH dạ dày. Một cách khác là tiêm hormone gastrin và đo khả năng sản xuất axit của dạ dày.
Các thành phần hóa học có trong dịch vị
Dịch vị không chỉ đơn thuần là axit clohydric. Nó là một hỗn hợp phức tạp của nước, axit, enzym và chất nhầy. Các thành phần của dịch vị gồm:
- Nước - Nước không ảnh hưởng đến pH dạ dày, nhưng nó có vai trò làm mềm để thức ăn, enzym và axit có thể dễ dàng trộn lẫn với nhau. Một số enzym cần nước để hoạt động.
- Chất nhầy - Các tế bào trong miệng, thực quản và dạ dày tiết ra chất nhầy. Nó giúp vận chuyển thức ăn qua đường tiêu hóa một cách dễ dàng và bảo vệ niêm mạc dạ dày khỏi sự tấn công của axit. Tế bào cổ tuyến cũng tiết ra bicarbonat, giúp đệm axit và kiểm soát độ pH.
- Axit clohydric - Axit mạnh này được tiết ra bởi các tế bào viền của dạ dày. Nó tiêu diệt vi khuẩn và các mầm bệnh tiềm ẩn khác trong thức ăn và chuyển đổi tiền enzym pepsinogen thành enzym pepsin, thủy phân các protein bậc hai, bậc ba thành các phân tử nhỏ hơn, dễ tiêu hóa hơn.
- Pepsinogen - Pepsinogen được tiết ra bởi các tế bào chính của dạ dày. Khi được hoạt hóa bởi độ pH thấp, nó sẽ giúp tiêu hóa protein.
- Hormone và chất điện giải - Dịch vị cũng chứa hormone và chất điện giải, giúp hỗ trợ chức năng của các cơ quan, tiêu hóa thức ăn và hấp thu chất dinh dưỡng. Các tế bào nội tiết tiết ra nhiều hormone.
- Lipase dạ dày - Lipase là một loại enzym được tạo ra bởi các tế bào chính trong dạ dày, hỗ trợ phân giải chất béo chuỗi ngắn và chuỗi trung bình.
- Yếu tố nội - Các tế bào viền của dạ dày tiết ra yếu tố nội, cần thiết cho sự hấp thu vitamin B12.
- Amylase - Amylase là một loại enzym được tìm thấy chủ yếu trong nước bọt, có tác dụng thủy phân carbohydrat. Enzym này được tìm thấy trong dạ dày do việc nuốt nước bọt cùng thức ăn, nhưng bị bất hoạt do độ pH thấp. Amylase bổ sung được tiết ở ruột non.
Sự co bóp của dạ dày sẽ trộn lẫn thức ăn và dịch vị để tạo ra dưỡng chấp. Dưỡng chấp đi từ dạ dày xuống ruột non. Tại đây, axit còn lại được trung hòa, quá trình tiêu hóa tiếp tục và các chất dinh dưỡng được hấp thu. Nước, chất điện giải và các chất dinh dưỡng từ quá trình lên men của vi khuẩn được tái hấp thu tại ruột già.
Tại sao dịch vị không phá hủy dạ dày?

Lớp niêm mạc dạ dày tiết ra bicarbonat có tác dụng trung hòa axit và ngăn không cho dạ dày tự phân giải.
Axit và enzym trong dịch vị có thể phá hủy dạ dày, chủ yếu là phá hủy protein. Tuy nhiên, tại sao điều này không xảy ra? Lý do khiến dạ dày không tự phân giải được là do nó có lớp chất nhầy bảo vệ do tế bào biểu mô tiết ra. Lớp chất nhầy giàu anion bicarbonat có tính kiềm, giúp trung hòa axit để tạo ra nước và carbon đioxit. Khi axit được trung hòa, pH gần niêm mạc dạ dày tăng lên vượt khoảng tối ưu của các enzym dạ dày và ngăn chúng phân giải mô. Tuy nhiên, có những rối loạn làm tăng sản xuất axit dạ dày vượt quá khả năng trung hòa của lớp niêm mạc. Khi quá nhiều axit được sản xuất, loét dạ dày có thể xảy ra.
Xem thêm: