Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh quốc gia Hoa Kỳ (CDC) khuyến cáo rằng trẻ em nên được chủng ngừa bại liệt để bảo vệ khỏi bệnh bại liệt. ...

Vắc xin bại liệt sống giảm độc lực đường uống (OPV) đã được triển khai tại Việt Nam từ những năm 1962, đến năm 2000 Việt Nam chính thức được công nhận đã thanh toán được bệnh bại liệt. Từ 2016, Việt Nam đã đồng thời đưa vắc xin bại liệt đường tiêm (IPV) vào chương trình phòng chống bại liệt quốc gia. 

Các loại vắc xin phòng bại liệt

Hai loại vắc xin phòng bệnh bại liệt gồm:

  • Vắc xin bại liệt đường uống (OPV): Là vắc xin bại liệt sống giảm độc lực, trong đó tOPV là vắc xin chứa kháng nguyên bại liệt týp 1,2,3 và bOPV là vắc xin chứa kháng nguyên bại liệt týp 1 và 3. Hiện nay, bOPV đang được sử dụng thay thế cho tOPV do từ 9/2015 vì Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã công bố loại bỏ bại liệt týp 2 trên toàn cầu. Mặc khác, do OPV là vắc xin sống giảm độc lực, trong thành phần vắc-xin chứa các vi rút đã bị làm suy yếu. Sau khi các ống vắc xin dạng uống sử dụng xong phát tán ngoài môi trường, sẽ có một tỷ lệ (dù rất nhỏ) nguy cơ vi rút biến đổi và gây bệnh cho cộng đồng. Sử dụng bOPV sẽ làm giảm các trường hợp bại liệt do vi rút có nguồn gốc vắc xin týp 2 gây ra.
  • Vắc-xin bất hoạt dạng tiêm (IPV): Chứa các vi rút bất hoạt nên rất an toàn, chứa kháng nguyên của cả ba týp vi rút bại liệt 1,2,3 có tác dụng kích thích cơ thể sinh kháng thể tạo miễn dịch phòng bệnh. Việc sử dụng thêm một liều vắc xin bại liệt dạng tiêm từ tháng tuổi thứ 5, bên cạnh vắc xin bại liệt bOPV dạng uống giúp tăng cường miễn dịch bảo vệ đối với vi rút bại liệt týp 1 và 3 đồng thời gây miễn dịch phòng bệnh đối với týp 2.

Kể từ năm 2000, chỉ IPV đã được sử dụng ở Hoa Kỳ để loại bỏ nguy cơ vi rút bại liệt có nguồn gốc từ vắc xin có thể xảy ra với OPV. Quyết định này cũng dựa trên việc giảm nguy cơ vi rút bại liệt hoang dã được đưa vào đất nước và vì Hoa Kỳ hiện không có bệnh bại liệt.

IPV đã được sử dụng ở Hoa Kỳ từ năm 1987 có hiệu quả như OPV để ngăn ngừa bệnh bại liệt. Hai liều IPV cung cấp 90% khả năng miễn dịch (bảo vệ trên) đối với cả ba loại virus bại liệt; 3 liều cung cấp ít nhất 99% khả năng miễn dịch.

Đối tượng

Trẻ sơ sinh và trẻ em

  • Chương trình tiêm chủng mở rộng

Theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế Việt Nam hiện nay, lịch tiêm chủng vắc-xin phòng bại liệt cho trẻ em dưới 1 tuổi trong Chương trình tiêm chủng mở rộng được thực hiện như sau:

  • Trẻ 2 tháng tuổi: uống vắc-xin bOPV lần 1
  • Trẻ 3 tháng tuổi: uống vắc-xin bOPV lần 2
  • Trẻ 4 tháng tuổi: uống vắc-xin bOPV lần 3
  • Trẻ 5 tháng tuổi: tiêm 1 mũi vắc-xin phòng bại liệt IPV.

Việc sử dụng vắc xin OPV dạng uống và vắc xin IPV dạng tiêm là an toàn, sử dụng cùng lúc 2 vắc xin sẽ tạo miễn dịch phòng bệnh tốt hơn cho trẻ.

  • Chương trình tiêm chủng dịch vụ

Đối với chương trình tiêm chủng dịch vụ, vắc xin phòng bại liệt sẽ phối hợp cùng vắc xin bạch hầu, ho gà, uốn ván, Hemophilus Influenza tysp b trong vắc xin 5 trong 1 (Pentaxim) hoặc phối hợp cùng vắc xin bạch hầu, ho gà, uốn ván, Hemophilus Influenza tysp b, viêm gan B trong vắc xin 6 trong 1 (Infanrix hexa, Hexaxim). Những vắc xin này chứa kháng nguyên của cả ba týp vi rút bại liệt 1,2,3 bất hoạt nên thường an toàn nhưng vẫn kích thích cơ thể sinh kháng thể tạo miễn dịch phòng bệnh một cách tối ưu.

Trẻ dưới 2 tuổi sẽ được tiêm vắc xin 5 trong 1 hoặc 6 trong 1 với phác đồ 4 liều như sau:

  • Mũi 1: trẻ 2 tháng tuổi
  • Mũi 2: trẻ 3 tháng tuổi
  • Mũi 3: trẻ 4 tháng tuổi
  • Mũi 4: trẻ 18 tháng tuổi

Ngoài ra, theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO), Ủy ban phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), vắc xin phòng bại liệt còn được nhắc lại cho trẻ lúc 4-6 tuổi cùng với vắc-xin phòng bạch hầu-ho gà-uốn ván (ví dụ như vắc-xin 4 trong 1: Tetraxim).

Trẻ nhỏ đi du lịch đến một quốc gia có nguy cơ cao mắc bệnh bại liệt nên hoàn thành tiêm chủng trước đó. Nếu trẻ không thể hoàn thành việc tiêm chủng bại liệt thông thường trước khi đi thì một lịch trình cấp tốc được khuyến cáo như sau:

  • 01 liều khi trẻ từ 6 tuần tuổi trở lên
  • Liều thứ hai 4 tuần trở lên sau liều đầu tiên
  • Liều thứ ba 4 tuần trở lên sau liều thứ hai
  • Liều thứ tư 6 tháng trở lên sau liều thứ ba.

Nếu lịch trình này không thể hoàn thành trước chuyến đi, các liều còn lại nên được tiêm tại quốc gia khác hoặc khi trở về nhà, vào các khoảng thời gian được khuyến nghị trong lịch trình cấp tốc. Ngoài ra, trẻ em hoàn thành lịch trình cấp tốc vẫn nên được tiêm một liều IPV từ 4 tuổi trở lên, miễn là cách ít nhất 6 tháng sau liều cuối cùng.

Người lớn

Hầu hết người lớn không cần vắc xin bại liệt vì họ đã được chủng ngừa khi còn nhỏ. Tuy nhiên, 3 nhóm người lớn có nguy cơ mắc bệnh cao hơn và nên cân nhắc tiêm phòng bại liệt như:

  • Du lịch đến một quốc gia có nguy cơ mắc bệnh bại liệt cao hơn. Hãy xin ý kiến bác sĩ về việc bạn có cần phải chủng ngừa hay không.
  • Đang làm việc trong phòng thí nghiệm và xử lý các mẫu vật có thể chứa vi rút bại liệt.
  • Nhân viên y tế điều trị bệnh nhân có thể bị bại liệt hoặc tiếp xúc gần với người có thể bị nhiễm vi rút bại liệt.

Người lớn trong ba nhóm này chưa bao giờ được chủng ngừa bệnh bại liệt nên tiêm 3 liều IPV như sau:

  • Mũi đầu tiên bất kỳ lúc nào
  • Mũi thứ hai cách 1 đến 2 tháng sau mũi 1
  • Mũi thứ ba sau mũi thứ hai từ 6 đến 12 tháng.

Người lớn trong ba nhóm này đã từng tiêm 1 hoặc 2 liều vắc xin bại liệt trước đây nên tiêm 1 hoặc 2 liều còn lại. Không quan trọng đã bao lâu kể từ (các) liều trước đó.

Người lớn có nhiều nguy cơ tiếp xúc với vi rút bại liệt và trước đó đã hoàn thành chủng ngừa vắc xin bại liệt (IPV hoặc OPV) có thể cần tiêm một liều IPV tăng cường suốt đời.

Trường hợp đặc biệt

  • Người được tiêm chủng bị dị ứng nghiêm trọng, đe dọa đến tính mạng.

Nếu một người đã từng bị phản ứng dị ứng đe dọa tính mạng sau một liều IPV, hoặc bị dị ứng nghiêm trọng với bất kỳ thành phần nào của vắc xin này, họ được khuyên không nên tiêm chủng. Nghe tư vấn từ bác sĩ nếu bạn muốn biết thông tin về các thành phần vắc xin.

  • Tình trạng sức khỏe không tốt

Nếu một người bị bệnh nhẹ, chẳng hạn như cảm lạnh, họ có thể tiến hành chủng ngừa ngay. Nếu tình trạng bệnh vừa hoặc nặng, nên đợi cho đến khi khỏi bệnh mới tiến hành chủng ngừa. Bác sĩ sẽ tư vấn cho bạn thời điểm và điều kiện tình trạng sức khỏe trước khi tiêm.

Hiệu quả

Thuốc chủng ngừa bại liệt hoạt động tốt như thế nào?

Vắc xin bại liệt là thành quả của toàn nhân loại. Sự có mặt của vắc xin đã góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh bại liệt lên tới 99,9% trên cả 3 chủng vi rút. Vắc xin bại liệt bất hoạt (IPV), là vắc xin bại liệt duy nhất đã được tiêm ở Hoa Kỳ kể từ năm 2000, bảo vệ hầu hết tất cả trẻ em (99 trong số 100 trẻ) được tiêm đủ liều khuyến cáo. Để bảo vệ tốt nhất, trẻ em nên được tiêm chủng đúng và đủ theo chương trình tiêm chủng.

Tác dụng phụ

Các tác dụng phụ có thể xảy ra của vắc xin bại liệt là gì?

Với bất kỳ loại thuốc nào, kể cả vắc xin, đều có khả năng xảy ra tác dụng phụ. Phản ứng thường gặp: đau, xuất hiện quầng đỏ, sưng tại nơi tiêm, sốt nhẹ. Các phản ứng này sẽ tự hết trong 1-2 ngày.

Các vấn đề khác có thể xảy ra sau khi tiêm vắc xin này:

  • Ngất, xỉu sau một thủ thuật y tế, bao gồm cả tiêm chủng. Ngồi hoặc nằm trong khoảng 15 phút có thể giúp ngăn ngừa ngất, xỉu và chấn thương do ngã. Hãy báo cho bác sĩ biết nếu bạn cảm thấy chóng mặt, thay đổi thị lực hoặc ù tai.
  • Một số người bị đau vai có thể trầm trọng hơn và kéo dài hơn so với cơn đau thông thường xảy ra sau khi tiêm thuốc. Tuy nhiên, điều này rất hiếm khi xảy ra.
  • Bất kỳ loại thuốc nào cũng có thể gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Những phản ứng như vậy từ vắc xin là rất hiếm, ước tính khoảng 1 trong 1 triệu liều và sẽ xảy ra trong vòng vài phút đến vài giờ sau khi chủng ngừa.

Theo dõi sau tiêm chủng

  • Cho trẻ ở lại khu vực theo dõi sau tiêm chủng tối thiểu 30 phút sau tiêm để nhân viên y tế theo dõi trẻ và xử lý kịp thời những phản ứng bất thường có thể xảy ra.
  • Cha mẹ theo dõi trẻ tại nhà ít nhất 24-48 giờ sau khi tiêm chủng. Các dấu hiệu cần theo dõi là toàn trạng tinh thần của trẻ (tỉnh táo, quấy khóc, li bì...), tình trạng ăn ngủ, bỏ bú, bú kém, nhiệt độ, phát ban trên da, sưng đỏ vị trí tiêm, thở nhanh, khó thở, tím tái, rối loạn tiêu hóa... khi phát hiện sức khỏe trẻ có gì bất thường, phải đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để được xử trí kịp thời.
  • Chú ý, bế và quan sát trẻ thường xuyên, không chạm, đè vào chỗ tiêm, không đắp bất cứ thứ gì vào chỗ tiêm. Cho trẻ ăn đủ bữa, đủ số lượng, thường xuyên kiểm tra trẻ vào ban đêm.

Elite author
We always feel that we can do better and that our best piece is yet to be written.
Tất cả bài viết
BÀI VIẾT MỚI NHẤT