Nguyên nhân gây ra bệnh melioidosis?
Tiếp xúc với đất có vi khuẩn Burkholderia pseudomallei có thể thây bệnh Whitmore. Nguồn ảnh : passporthealthglobal.com
Melioidosis, hay còn gọi là bệnh Whitmore, mà một bệnh nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn gọi là Burkholderia pseudomallei (trước đây được biết là Pseudomonas pseudomallei). Vi khuẩn được tìm thấy trong nước và đất nhiễm khuẩn và lây cho người và động vật qua tiếp xúc trực tiếp nguồn lây. Vi khuẩn cũng bị lo là nhân tố tiềm năng cho chiến tranh sinh học và khủng bố sinh học.
Melioidosis, tương tự như bệnh loét mũi truyền nhiễm (bệnh Glanders), lây cho người từ vật nuôi bị nhiễm bệnh.
Yếu tố nguy cơ bệnh melioidosis?
Yếu tố nguy cơ nhiễm melioidosis bao gồm:
- Sống ở Đông Nam Á và Bắc Úc.
- Đái tháo đường
- Nghiện rượu
- Bệnh thận mạn tính
- Bệnh phổi mạn tính
- Bệnh gan
- Thalassemia (Tan máu bẩm sinh)
- Sử dụng thuốc Kava
- Ung thư hoặc tình trạng suy giảm miễn dịch không liên quan đến HIV
- Bệnh phổi mạn tính (như xơ nang, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD), và giãn phế quản).
Những yếu tố nguy cơ khác có thể tăng nguy cơ nhiễm melioidosis bao gồm steroid và liệu pháp ức chế miễn dịch khác, bệnh thấp tim, suy tim sung huyết, bệnh phổi lắng đọng, bệnh u hạt mạn tính, lao.
Dấu hiệu và triệu chứng của melioidosis là gì?
Có nhiều type bệnh melioidosis, mỗi loại có dấu hiệu và triệu chứng riêng.
Viêm phổi: Triệu chứng phổ biến xuất phát là nhiễm trùng phổi, nơi có thể hình thành khoang chứa mủ (áp xe). Ảnh hưởng của nhiễm trùng có thể từ viêm phế quản nhẹ đến viêm phổi nặng. Kết quả là bệnh nhân có thể bị sốt, đau đầu, chán ăn (anorexia), ho, khó thở, đau ngực, đau nhức cơ.
Nhiễm trùng khu trú: Ảnh hưởng có thể khu trú ở nhiễm trùng da (viêm mô tế bào) triệu chứng đau hay sưng, loét, áp xe, kèm theo sốt và đau cơ.

Nhiễm khuẩn huyết: Nếu melioidosis vào máu, triệu chứng có thể bao gồm sốt, đau đầu, suy hô hấp, đau bụng, đau khớp, mất định hướng.
Nhiễm trùng lan tỏa: Melioidosis có thể lan từ da đến máu trở thành dạng mạn tính ảnh hưởng đến tim, não, gan, thận, khớp, mắt. Triệu chứng của nhiễm trùng lan tỏa bao gồm sốt, gầy sút cân, đau bụng hoặc đau ngực, đau khớp hoặc đau cơ, đau đầu, động kinh.
Melioidosis có phải bệnh lây hay không?
Melioidosis là bệnh lây ở mức hạn chế. Nó có thể lây từ người sang người, mặc dù hiếm gặp. Đường lây thường gặp nhất là qua tiếp xúc trực tiếp với nước và đất chứa vi khuẩn, đặc biệt là qua vết thương hở trên da. Người và động vật có thể bị nhiễm trùng do hít phải bụi hoặc giọt nước hoặc uống nước chứa vi khuẩn.
Melioidosis được chẩn đoán như nào?
Chẩn đoán melioidosis được chẩn đoán bằng xét nghiệm vi sinh mẫu máu, nước tiểu, đờm, mẫu da tổn thương. Xét nghiệm máu có tác dụng phát hiện sớm những ca melioisodis, nhưng nếu âm tính cũng chưa thể loại trừ
Chuyên ngành nào điều trị cho melioidosis?
Những nơi cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu (PCPs). Ví dụ như bác sĩ gia đình, bác sĩ nội khoa, bác sĩ nhi khoa, và bác sĩ cấp cứu có thể điều trị ban đầu cho bệnh nhân, nhưng với những người có biến chứng nặng cần được điều trị bởi bác sĩ truyền nhiễm hoặc bác sĩ hồi sức tích cực.
Thời gian ủ bệnh của melioidosis là bao lâu?
Thời gian ủ bệnh của melioidosis trong khoảng từ 1 đến 21 ngày, và trung bình là 9 ngày để khởi phát nhiễm trùng. Triệu chứng điển hình có thể xuất hiện hai đến bốn tuần sau khi phơi nhiễm.
Nơi xuất hiện bệnh melioidosis?
Melioidosis thường được báo cáo xuất hiện ở Đông Nam Á, Bắc Úc, Nam Á (bao gồm Ấn Độ), và Trung Quốc. Bệnh nhân chủ yếu là từ Thái Lan, Malaysisa, Singapore và Bắc Úc. Melioidosis đã từng có ca bệnh ở Papua New Guinea và New Caledonia. Vi khuẩn gây bệnh được tìm thấy trong đất, ruộng lúa, nước tù đọng trong khu vực. Người mắc bệnh do hít phải bụi chứa vi khuẩn, và khi tiếp xúc trực tiếp vùng da trầy xước với đất nhiễm khuẩn. Nhiễm khuẩn thường xuất hiện vào mùa mưa.
Theo trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC), tại Mĩ, ca bệnh xác định hàng năm trong khoảng từ 0 đến 5 trường hợp và thường xảy ra ở khách du lịch và người nhập cư.
Điều trị cho meliodosis như thế nào?
Điều trị cho melioidosis sử dụng kháng sinh và phụ thuộc vào vị trí bệnh.
Với bệnh nhân có bệnh nhẹ hơn, CDC khuyến cáo dùng kháng sinh như Imipenem, Meropenem (Meronem), Penicillin, Doxycycline (Doryx, Oracea, Monodox), Amoxicillin-Clavulanic acid (Augmentin, Augmentin XR), Ceftazidime (Fortaz, Tazicef), Ticarcillin-Clavulanic acid (Timentin), Ceftriaxone (Rocephin), and Aztreonam (Cayston, Azactam). Bệnh nhân bị bệnh nặng hơn được cho phối hợp hai trong số những thuốc trên trong ba đến sáu tháng.

Sau khi điều trị liều cao ban đầu, điều trị triệt căn có thể dùng Trimethoprim-Sulfamethoxazole (Bactrim, Sulfatrim).
Với melioidosis biểu hiện ở phổi, nếu cấy vi khuẩn còn dương tính sau 6 tháng, có thể cân nhắc phẫu thuật cắt bỏ thùy phổi để loại bỏ áp xe phổi.
Có thể phòng bệnh melioidosis không?
Phòng nhiễm khuẩn ở khu vực có bệnh melioidosis bao gồm giảm nguy cơ phơi nhiễm vi khuẩn.
Người bị suy giảm miễn dịch hệ thống (như AIDS, ung thư, những người đang hóa trị, v.v…), vết thương da hở, đái tháo đường hoặc bệnh thận mạn cần tránh tiếp xúc với đất và nước nhiễm, đặc biệt là vùng làm nông.
Người làm nông nên dùng đầy đủ dụng cụ bảo vệ chuẩn, bao gồm bốt, để tránh nhiễm khuẩn bàn chân và chân.
Người làm nghề chăm sóc sức khỏe dùng phương tiện bảo hộ chuẩn, bao gồm khẩu trang, găng tay, và áo bảo hộ để phòng nhiễm khuẩn.
Tiên lượng bệnh melioidosis là gì?
Melioidosis nếu không điều trị sẽ dẫn tới tử vong. Khi được điều trị với kháng sinh, các dạng nặng của bệnh với sepsis (nhiễm trùng hệ thống) và các biến chứng phát sinh từ bệnh có tỷ lệ tử vong chung là khoảng 40%.