Sốt xuất huyết với hội chứng thận (HFRS - Haemorrhagic Fever with Renal Syndrome) là bệnh vi rút cấp tính truyền từ động vật sang người do vi rút có tên là Hanta gây ra. Vi rút Hanta còn viết là Hanta (Hantavirus, thuộc họ Bunyaviridea) là vi rút sống chủ yếu trong cơ thể các loài động vật gặm nhấm, chủ yếu là ở chuột, nhưng không gây bệnh cho chúng. Vi rút này được tìm thấy đầu tiên tại Hàn Quốc, tên gọi Hanta bắt nguồn từ tên con sông Hanta - nơi vi rút lần đầu tiên được phân lập vào năm 1978. ...


Chuột là trung gian lây truyền vi rút HantaChuột là trung gian lây truyền vi rút Hanta 

Người bị nhiễm vi rút do tiếp xúc những chất bài tiết của động vật gặm nhấm, nhiễm bệnh qua đường hô hấp và các chất bài tiết thải ra từ chuột hay bị chuột cắn, qua các vùng da bị tổn thương, niêm mạc mắt, mũi miệng, do nước hoặc thức ăn đã bị nhiễm vi rút Hanta trước đó.


 Hình thái: Hình cầu và hình thoi, có đường kính 95-110 nm. Vi rút Hanta có 3 đoạn ARN; Đoạn cuối của chuỗi nucleotid có 3 đoạn ARN riêng lẻ, đầu 3’ chỉ cho thấy có 4 týp huyết thanh của vi rút Hanta thuộc họ Bunyaviridea. Cả 4 týp huyết thanh này đều có đáp ứng trên tế bào Vero- E6.


Vi rút Hanta. Nguồn Pest Control TechnologyVi rút Hanta. Nguồn Pest Control Technology

 Có ít nhất 20 chủng vi rút với cấu trúc kháng nguyên khác nhau, liên quan đến một loại động vật gặm nhấm riêng biệt. Vi rút Hanta có 4 týp huyết thanh chủ yếu, gây ra các bệnh cảnh lâm sàng với mức độ trầm trọng khác nhau. 


Khả năng tồn tại trong môi trường bên ngoài: Vi rút Hanta có thể sống lâu trong nước tiểu, phân, nước dãi và trong bụi không khí... Trong phòng thí nghiệm, vi rút Hanta tồn tại 30 phút trong đệm buffer từ 6.6 đến 8.8; Tương tự thời gian sống như vậy trong 10% huyết thanh bào thai bê với pH thay đổi từ 5 đến 9. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng vi rút Hanta có thể lan truyền trong không khí vài ngày sau khi các chất tiết thải ra từ chuột.

Tại Việt Nam vi rút Hanta đã được tìm thấy ở loài chuột Rattus Norvegicus ở một số tỉnh miền Bắc và có 11 loại của Việt Nam được đăng ký tại Ngân hàng gen Quốc tế trong đó 10 loại có cấu trúc gen thuộc chủng vùng Seoul       

Vi rút Hanta gây ra hai thể bệnh với tỷ lệ tử vong cao là Sốt xuất huyết với hội chứng thận với tỉ lệ tử vong 1-15% và Hội chứng phổi do vi rút Hanta (HPS - Hantavirus Pulmonary Syndrome) với tỉ lệ tử vong 40-50%. Vi rút gây HFRS là các chủng Hanta, Seoul, Dobrava (Belgrade), và Puumala, gặp chủ yếu ở châu Á. Những tác nhân gây ra HPS là Sin Nombre, Black Creek canal, Bayou và New York-1, gặp chủ yếu ở châu Mỹ, bệnh được đặc trưng bởi tình trạng phù phổi khởi đầu nhanh chóng, sau đó là suy hô hấp và sốc tim.

Dịch tễ học


Bệnh thường thấy ở người lớn, nhóm tuổi từ 20-50 tuổi. Hiếm khi gặp ở trẻ em dưới 10 tuổi và những người già. Ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 15 tuổi, bệnh nhẹ và thường không triệu chứng.

Bệnh sốt xuất huyết với hội chứng thận do vi rút Hanta - Ảnh 2

Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới cao hơn nữ do họ tăng tần suất hoạt động ngoài trời, dẫn đến tiếp xúc với động vật gặm nhấm bị nhiễm bệnh.  Nhóm đối tượng có nguy cơ cao là: 

  • Nông dân có công việc thường xuyên ở ngoài đồng
  • Người làm công tác trong phòng thí nghiệm, thường xuyên tiếp xúc và sử dụng các loài chuột hoặc các loài gặm nhấm
  • Công nhân nuôi động vật thí nghiệm
  • Công nhân chăn nuôi
  • Người làm việc tại phòng thí nghiệm giám sát chuột
  • Các nhà sinh vật học
  • Người lính
  • Thợ săn và những người hay đi cắm trại
  •  Hiếm xảy ra lan truyền vi rút Hanta từ người bệnh sang người lành.

Vị trí địa lý: Sốt xuất huyết với hội chứng suy thận nặng xảy ra ở Trung Quốc, Nhật Bản và Singapore. Số trường hợp mắc bệnh ở Trung Quốc là khoảng 100.000-250.000 mỗi năm. 

Nguồn truyền nhiễm và phương thức lây truyền


  • Ổ chứa: Kháng nguyên vi rút Hanta có thể tìm thấy trong 16 loài chuột khác nhau ở Trung Quốc và Liên bang Nga. Những ổ chứa vi rút không gây nên bệnh nhưng chúng tiết ra vi rút qua nước tiểu và nước bọt trong thời gian dài. Phổi của vật chủ chứa lượng vi rút lớn hơn các bộ phận khác.

Bệnh sốt xuất huyết với hội chứng thận do vi rút Hanta - Ảnh 3

  • Thời kỳ lây truyền: Từ 3 đến 6 ngày đầu của bệnh khi sốt đang cao; Sau đó, lượng vi rút được đào thải tiếp từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 14 khi bệnh nhân đang ở giai đoạn bí tiểu và đa niệu.
  • Vi rút Hanta lan truyền nhờ các loài gặm nhấm, chủ yếu là chuột. Các chất thải loại như: nước bọt ít nhất 1 lần/ tháng; Còn nước tiểu hoặc phân thì thường quanh năm được lan truyền qua không khí. Đó là nguồn lan truyền theo đường nằm ngang của vi rút Hanta trên chuột Apodemus. Chuột nhà, chuột cống và chuột thí nghiệm sẽ nhiễm vi rút này trong vòng từ 1 đến 2 tuần rồi truyền tiếp qua người. Hiện nay, chưa có bằng chứng về việc lan truyền vi rút Hanta qua động vật chân khớp hoặc giữa người với người.
  • Chu kỳ truyền bệnh của vi rút Hanta: Trong thiên nhiên (ổ dịch tiên phát), vi rút Hanta tồn tại trong chuột và do tiếp xúc, lan truyền vi rút này sang chuột sống lẫn trong cộng đồng dân cư (ổ dịch thứ phát) gặp thời cơ và do con người tiếp xúc với các chất thải có vi rút Hanta, gây dịch cho người.

Triệu chứng

Thời gian ủ bệnh: Thời gian ủ bệnh thông thường từ 2 tới 3 tuần; Nhiều trường hợp có thể kéo dài

Bệnh khởi phát với sốt đột ngột, ớn lạnh, nhức đầu, đau phần dưới lưng, biếng ăn, khát nước, buồn nôn, đau bụng, viêm họng, phù mặt, xuất huyết nhiều mức độ khác nhau có liên quan đến triệu chứng ở thận. 

Nhiễm virus HantaDobrava thường gây ra các triệu chứng nghiêm trọng, trong khi nhiễm virus Seoul, SaaremaaPuumala thường nhẹ hơn. Quá trình phục hồi hoàn toàn có thể mất vài tuần hoặc vài tháng.

Hội chứng sốt thận có thể chia làm 5 thể:

  • Pha sốt: Kéo dài từ 3 tới 6 ngày. Bắt đầu sốt đột ngột kèm theo ớn lạnh, đau đầu, mệt mỏi, hoa mắt, đau cơ, đau lưng, biếng ăn, buồn nôn. Bệnh nhân thường biếng ăn và khát nước luôn đi kèm với sốt. Buồn nôn và đau bụng thường xuất hiện trong suốt giai đoạn này. Bệnh nhân mắc tiêu chảy trong vài ngày đầu. Mắt có dấu hiệu quáng gà, kèm theo đau mắt và sợ ánh sáng. Có dấu hiệu nổi ban khác nhau trên mặt, cổ, phía trước ngực.
  • Huyết áp giảm vào ngày thứ 5: Một vài trường hợp huyết áp tụt xuống nhỏ hơn 90 mm Hg, vài trường hợp shock có thể nhìn thấy được. Trong pha này, hầu hết các triệu chứng và dấu hiệu đi kèm sốt: đau đầu, đau cơ, các triệu chứng về mắt; kèm theo vết tụ máu, chảy máu cam, xuất huyết nội tạng.
  • Bí tiểu: Bệnh nhân tăng huyết áp trở lại trong vòng từ ngày thứ 6 tới ngày thứ 8, chứng bí tiểu nổi bật, có dấu hiệu ure tăng; Bệnh nhân tiếp tục mỏi mệt, khát nước, đau ổ bụng và đau lưng, buồn nôn kéo dài, có dấu hiệu nấc (hiccups), đốm xuất huyết, vết bầm máu. Tiếp theo là chứng phù phổi; Bệnh nhân thời kỳ này rất nguy hiểm, huyết áp tăng cao hơn bình thường.
  • Đa niệu: Xuất hiện từ ngày thứ 9 tới ngày thứ 14. Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh nhân không bí tiểu thì chứng đa niệu vẫn xuất hiện. Đi kèm với chứng giảm huyết áp.
  • Phục hồi: Thường từ 3 tới 6 tuần. Trong thời gian này, bệnh nhân tăng cân trở lại một cách chậm chạp, các cơ bắp vẫn còn yếu, xuất hiện đái nhiều.

Hội chứng này cũng có thể gây tử vong. Trong một số trường hợp, bệnh gây ra suy thận vĩnh viễn.

Chẩn đoán

Chẩn đoán xác định

Thường dùng các phản ứng huyết thanh để phát hiện kháng thể IgM và IgG thông qua các kỹ thuật kháng thể miễn dịch huỳnh quang Immunofluorescent technique); Trung hoà giảm đám hoại tử (Plaque-reductionneutralization test); Miễn dịch phóng xạ (Radioimmunoassay); Miễn dịch Enzym (Enzym- linked immunosorbent assay); Western Blotting; Ngăn ngưng kết hồng cầu (Hemagglutination and Hemagglutination inhibition - HI)…

Hoặc phân lập vi rút trên tế bào VERO-E6, LLC-MK2 rồi nhận biết bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang với kháng thể đơn dòng hoặc RT-PCR. Sự có mặt của protein niệu, tăng bạch cầu, máu đặc, tiểu cầu giảm, tăng u rê huyết là những dấu hiệu cận lâm sàng giúp cho chẩn đoán. 

Chẩn đoán phân biệt

Với các bệnh có sốt xuất huyết như sốt xuất huyết Dengue (thường xảy ra thành dịch, vào mùa mưa, lây truyền bởi muỗi vằn Aedes Aegypti).

Điều trị

Không có bất kỳ cách điều trị hoặc vắc-xin nào cho bệnh sốt xuất huyết với hội chứng thận. Điều trị bao gồm điều trị hỗ trợ như chạy thận nhân tạo (để kiểm soát tình trạng quá tải dịch nặng).

Chăm sóc bao gồm kiểm soát thận trọng dịch của bệnh nhân và nồng độ điện giải (ví dụ như natri, kali, clorua), duy trì nồng độ oxy và mức huyết áp phù hợp, điều trị bất kỳ sự nhiễm trùng thứ phát nào.

Bác sĩ có thể lọc máu để kiểm soát tình trạng quá tải dịch nặng. Trong giai đoạn đầu của bệnh này, ribavirin tĩnh mạch, một loại thuốc kháng virus, có thể làm thuyên giảm bệnh và nguy cơ tử vong do sốt xuất huyết với hội chứng thận gây ra.

Phòng bệnh

Hiện tại chưa có vắc xin phòng bệnh. Vì bệnh có trung gian lây truyền chủ yếu là chuột nên biên pháp phòng bệnh hiệu quả là tránh tiếp xúc với chúng

  • Tuyên truyền, giáo dục sức khỏe nhất là các nhà nghiên cứu khoa học có liên quan đến động vật gậm nhấm, công nhân lâm nghiệp, bộ đội biên phòng, nông dân nên tránh xa nguồn lây lan vi rút Hantan là chuột.
  • Vệ sinh phòng bệnh: ngủ màn, tránh tiếp xúc với động vật gậm nhấm.
  • Lọai trừ và không để gặm nhấm tấn công vào nhà.
  • Ngăn ngừa không cho loài gặm nhấm xâm phạm thức ăn của người và gia súc.
  • Khử khuẩn các vùng có loài gậm nhấm nhiễm bệnh bằng phun hóa chất khử khuẩn trước khi làm sạch. Không quét và hút bụi ở nơi có chuột mà nên dùng khăn tẩm hóa chất để lau.
  • Đánh bẫy loài gặm nhấm với những biện pháp thích hợp. Không nên dùng phương pháp bẫy sống.
  • Trong vùng có bệnh lưu hành ở động vật, hạn chế tới mức tối thiểu việc tiếp xúc với các loài gặm nhấm hoang dại và các chất thải của chúng. 

Elite author
We always feel that we can do better and that our best piece is yet to be written.
Tất cả bài viết
BÀI VIẾT MỚI NHẤT