Sỏi tiết niệu là những khối cứng hình thành trong đường tiết niệu và có thể gây đau, chảy máu, nhiễm trùng hoặc cản trở dòng chảy của nước tiểu. ...

Những điều cần biết về sỏi tiết niệu 

  • Những viên sỏi nhỏ có thể không gây ra triệu chứng gì, nhưng những viên sỏi lớn hơn có thể gây đau dữ dội ở vùng hông lưng.
  • Thông thường, chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm nước tiểu được thực hiện để chẩn đoán sỏi.
  • Đôi khi có thể ngăn hình thành sỏi bằng cách thay đổi chế độ ăn uống hoặc bổ sung dịch cho cơ thể.
  • Các viên sỏi không tự di chuyển ra ngoài cơ thể sẽ được lấy ra bằng phương pháp tán sỏi (sử dụng sóng xung kích để phá vỡ các viên sỏi đó) hoặc kỹ thuật nội soi (sử dụng các công cụ chuyên dụng để quan sát và phẫu thuật các cơ quan bên trong cơ thể).

Sỏi tiết niệu bắt đầu hình thành trong thận và có thể to ra trong niệu quản hoặc bàng quang. Tùy thuộc vào vị trí của sỏi mà được gọi là sỏi thận, sỏi niệu quản hoặc sỏi bàng quang. 

Mỗi năm, khoảng 1 trong số 1.000 người trưởng thành ở Hoa Kỳ phải nhập viện vì sỏi tiết niệu. Sỏi phổ biến hơn ở người trung niên và người lớn tuổi. Các viên sỏi có kích thước khác nhau, từ rất nhỏ không thể nhìn thấy bằng mắt thường đến đường kính từ 2,5 cm trở lên. Viên sỏi lớn - được gọi là sỏi sừng nai (vì có nhiều hình cạnh giống như sừng nai, ngoài ra còn được gọi là sỏi san hô) - có thể lấp gần như toàn bộ bể thận (buồng thu gom nước tiểu trung tâm của thận) và các ống dẫn lưu vào đó (đài bể thận).

Nhiễm trùng đường tiết niệu có thể xảy ra khi vi khuẩn sinh sôi trong nước tiểu đọng lại phía trên chỗ tắc nghẽn. Khi sỏi làm tắc nghẽn đường tiết niệu trong một thời gian dài, nước tiểu sẽ trào ngược trong các ống dẫn bên trong thận, gây tăng áp lực và có thể làm cho thận to lên (thận ứ nước) và cuối cùng làm hỏng thận.

Các loại sỏi

Sỏi được tạo thành từ khoáng chất trong nước tiểu tạo thành các tinh thể. Đôi khi các tinh thể tích tụ thành sỏi. Khoảng 85% sỏi tiết niệu là sỏi canxi, phần còn lại gồm nhiều loại khác nhau, như sỏi axit uric, cystine hoặc struvite. Sỏi struvite - một hỗn hợp magiê, amoni và phốt phát - còn được gọi là sỏi nhiễm trùng, vì chúng chỉ hình thành trong nước tiểu bị nhiễm trùng.

Nguyên nhân của sỏi tiết niệu

Sỏi có thể hình thành do nước tiểu quá bão hòa với muối hoặc do nước tiểu thiếu các chất thông thường ức chế hình thành sỏi. Citrate là một trong số những chất đó vì citrate thường liên kết với canxi – một chất thường liên quan đến hình thành sỏi.

Sỏi phổ biến hơn ở những người mắc một số rối loạn nhất định trong cơ thể (ví dụ, cường cận giáp, mất nước và toan hoá ống thận) và ở những người có chế độ ăn uống giàu protein nguồn gốc động vật hoặc vitamin C, hoặc những người không cung cấp đủ nước hoặc canxi. Những người có tiền sử gia đình có người mắc sỏi tiết niệu thì nhiều khả năng bị sỏi canxi hơn và thường mắc bệnh này hơn. Những người đã trải qua phẫu thuật để giảm cân cũng tăng nguy cơ hình thành sỏi.

Hiếm khi, thuốc (bao gồm indinavir) và các chất trong chế độ ăn uống (chẳng hạn như melamine) gây ra sỏi.

Các triệu chứng của sỏi tiết niệu

Sỏi, đặc biệt là những viên nhỏ, có thể không gây ra bất kỳ triệu chứng nào. Sỏi trong bàng quang có thể gây đau bụng dưới. Sỏi làm tắc nghẽn niệu quản, bể thận hoặc ống dẫn trong thận có thể gây đau lưng hay đau quặn thận. Đau quặn thận có biểu hiện đau quặn từng cơn, thường ở vùng giữa mạng sườn và hông một bên, đau lan khắp bụng và thường lan ra vùng sinh dục. Cơn đau có xu hướng thành từng đợt, tăng dần đến cường độ cao nhất, sau đó giảm dần, trong khoảng 20 đến 60 phút. Cơn đau có thể lan xuống bụng về phía bẹn, tinh hoàn hoặc âm hộ.

Các triệu chứng khác bao gồm buồn nôn và nôn, bồn chồn, đổ mồ hôi, có máu hoặc có sỏi trong nước tiểu. Hoặc có thể có cảm giác muốn đi tiểu thường xuyên, đặc biệt là khi viên sỏi đi xuống niệu quản. Ớn lạnh, sốt, nóng rát hoặc đau khi đi tiểu, nước tiểu đục, có mùi hôi cũng đôi khi xảy ra.

Chẩn đoán sỏi tiết niệu

Các bác sĩ thường nghi ngờ sỏi ở những người có cơn đau quặn thận. Đôi khi bác sĩ nghi ngờ có sỏi ở những người bị đau ở lưng và háng hoặc đau ở vùng sinh dục mà không rõ nguyên nhân. Tìm thấy máu trong nước tiểu giúp hỗ trợ chẩn đoán, nhưng không phải tất cả các loại sỏi đều gây ra tiểu máu. Đôi khi, các triệu chứng rất đặc hiệu đến mức không cần xét nghiệm bổ sung, đặc biệt là ở những người đã từng bị sỏi tiết niệu trước đó. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều bị đau và có các triệu chứng có thể nhầm lẫn do các nguyên nhân khác gây ra, vì vậy xét nghiệm là cần thiết để loại trừ những nguyên nhân này. Các bác sĩ cần phân biệt sỏi với các nguyên nhân khác có thể gây ra đau bụng dữ dội, bao gồm:

  • Viêm phúc mạc, có thể do viêm ruột thừa, chửa ngoài ngoài tử cung hoặc viêm vùng chậu
  • Bệnh túi mật cấp tính (viêm túi mật cấp tính)
  • Tắc ruột
  • Viêm tụy
  • Phình động mạch chủ

Chup cắt lớp vi tính (CT scanner) không sử dụng chất cản quang thường là phương pháp chẩn đoán tốt nhất. CT có thể xác định vị trí của sỏi và cũng cho biết mức độ tắc nghẽn đường tiết niệu mà sỏi gây ra. CT cũng có thể phát hiện nhiều nguyên nhân khác có thể gây ra cơn đau tương tự như cơn đau quặn thận. Nhược điểm chính của CT là khiến con người tiếp xúc với bức xạ. Tuy nhiên, các nguyên nhân khác bao gồm cả những bệnh lý nguy hiểm cần được chẩn đoán bằng CT, chẳng hạn như phình động mạch chủ hoặc viêm ruột thừa. Các thiết bị CT mới và các phương pháp hạn chế tiếp xúc với bức xạ hiện đang được sử dụng phổ biến.

Siêu âm là phương pháp thay thế cho CT và không cần tiếp xúc với bức xạ. Tuy nhiên, so với CT, siêu âm thường bỏ sót những viên sỏi nhỏ (đặc biệt là khi nằm trong niệu quản), hay vị trí chính xác của tắc nghẽn đường tiết niệu hoặc các vấn đề nghiêm trọng khác.

Bạn có biết?

Những người mắc sỏi thận tái phát nên cân nhắc hạn chế số lần chụp CT để ngăn tiếp xúc với bức xạ quá nhiều.

Chụp X-quang bụng khiến người bệnh tiếp xúc ít bức xạ hơn so với chụp CT, nhưng chẩn đoán sỏi kém chính xác hơn nhiều và chỉ có thể cho thấy sỏi canxi. Khi các bác sĩ nghi ngờ sỏi canxi, chụp X-quang là một phương pháp thay thế giúp chẩn đoán sỏi hoặc để xem sỏi đã di chuyển xuống niệu quản hay chưa.

Chụp Xquang bài tiết nước tiểu (trước đây được gọi là chụp niệu đồ tĩnh mạch) là chụp liên tiếp nhiều phim Xquang sau khi tiêm vào tĩnh mạch chất cản quang. Phương pháp này có thể phát hiện sỏi và xác định chính xác mức độ tắc nghẽn đường tiết niệu, nhưng tốn nhiều thời gian và có rủi ro khi tiếp xúc với chất cản quang (ví dụ, phản ứng dị ứng hoặc suy thận nặng hơn). Các bác sĩ hiếm khi sử dụng phương pháp này để chẩn đoán sỏi nếu có sẵn CT hoặc siêu âm.

Phân tích nước tiểu thường được thực hiện. Nó có thể cho thấy máu hoặc mủ trong nước tiểu cho dù có hoặc không có triệu chứng.

Xác định loại sỏi

Đối với những người được chẩn đoán sỏi, bác sĩ thường làm các xét nghiệm để xác định loại sỏi. Người bệnh nên cố gắng thu thập những viên sỏi đã thải ra ngoài, bằng cách lọc nước tiểu qua một bộ lọc bằng giấy hoặc lưới. Sỏi tìm thấy có thể được tiến hành phân tích. Tùy thuộc vào loại sỏi, có thể cần xét nghiệm nước tiểu và máu để đo nồng độ canxi, axit uric và các chất khác có khả năng làm tăng nguy cơ hình thành sỏi.

Ngăn ngừa sỏi tiết niệu

Ở một người lần đầu tiên mắc sỏi canxi, khả năng hình thành một viên sỏi khác là khoảng 15% trong vòng 1 năm, 40% trong vòng 5 năm và 80% trong vòng 10 năm. Các biện pháp ngăn ngừa sự hình thành sỏi mới là khác nhau, tùy thuộc vào thành phần của những viên sỏi hiện có.

Uống nhiều dịch — 8 đến 10 ly, mỗi ly 300 ml mỗi ngày — được khuyến khích để ngăn ngừa tất cả các loại sỏi. Mọi người nên uống đủ dịch để tạo ra hơn 2 lít nước tiểu mỗi ngày. Các biện pháp phòng ngừa khác phụ thuộc phần nào vào loại sỏi.

Sỏi canxi

Những người bị sỏi canxi có thể có một tình trạng gọi là tăng canxi niệu, trong đó lượng canxi dư thừa được bài tiết qua nước tiểu. Đối với những người này, các biện pháp làm giảm lượng canxi trong nước tiểu có thể giúp ngăn ngừa hình thành sỏi mới. Một trong những biện pháp đó là chế độ ăn ít natri và nhiều kali. Lượng canxi nên ở mức bình thường - 1.000 đến 1.500 miligam mỗi ngày (khoảng 2 đến 3 khẩu phần sữa mỗi ngày). Nguy cơ hình thành sỏi mới thực sự cao hơn nếu chế độ ăn uống chứa quá ít canxi, vì vậy chúng ta không nên cố gắng loại bỏ canxi khỏi chế độ ăn uống của mình. Tuy nhiên, có thể cần tránh các nguồn cung cấp canxi dư thừa như thuốc kháng axit có chứa canxi.

Thuốc lợi tiểu thiazide, chẳng hạn như chlorthalidone hoặc indapamide, cũng làm giảm nồng độ canxi trong nước tiểu ở những người này. Kali citrate có thể giúp làm tăng lượng citrate trong nước tiểu, đây là một chất ức chế sự hình thành sỏi canxi. Hạn chế protein động vật trong khẩu phần ăn có thể giúp giảm canxi niệu và nguy cơ hình thành sỏi.

Bạn có biết không...

Những người bị sỏi canxi có nhiều khả năng mắc các loại sỏi khác nếu chế độ ăn của họ có quá ít hay quá nhiều canxi.

Mức độ cao oxalat trong nước tiểu góp phần hình thành sỏi canxi, có thể do ăn quá nhiều thực phẩm giàu oxalat, chẳng hạn như rau bina, ca cao, quả hạch, hạt tiêu và trà, hoặc do một số rối loạn đường ruột (bao gồm phẫu thuật giảm cân). Canxi citrate, cholestyramine, chế độ ăn ít chất béo và thực phẩm chứa oxalat có thể giúp giảm mức oxalat trong nước tiểu ở một số người. Pyridoxine (vitamin B6) làm giảm lượng oxalate mà cơ thể tạo ra.

Trong một số trường hợp hiếm hoi, khi sỏi canxi do cường cận giáp, bệnh sarcoid, nhiễm độc vitamin D, nhiễm toan ống thận hoặc ung thư, thì phải điều trị các bệnh này.

Sỏi axit uric

Sỏi axit uric hầu như luôn luôn được gây ra bởi lượng axit quá cao trong nước tiểu. Tất cả những người bị sỏi axit uric nên uống Kali citrate để làm kiềm hóa nước tiểu và trung hòa lượng axit gây sỏi axit uric. Đôi khi, một chế độ ăn ít protein động vật hoặc allopurinol có thể được sử dụng để giảm nồng độ axit uric trong nước tiểu. Cung cấp đủ dịch cho cơ thể cũng rất quan trọng.

Sỏi cystine

Đối với sỏi tạo thành từ cystine, nồng độ cystine trong nước tiểu phải được giữ ở mức thấp bằng cách duy trì bổ sung đủ dịch và đôi khi dùng alpha-mercaptopropionylglycine (tiopronin) hoặc penicillamine.

Sỏi struvite

Những người bị sỏi struvite tái phát có thể phải dùng thuốc kháng sinh liên tục để ngăn ngừa nhiễm trùng đường tiết niệu. Axit acetohydroxamic cũng có thể hữu ích ở những người bị sỏi struvite.

Điều trị sỏi tiết niệu

  • Thuốc chống viêm không steroid (NSAID) hoặc opioid nếu cần để giảm đau
  • Đôi khi cần phẫu thuật loại bỏ sỏi

Những viên sỏi nhỏ không gây triệu chứng, tắc nghẽn đường tiết niệu hoặc nhiễm trùng thường không cần điều trị và thường tự khỏi. Những viên sỏi lớn hơn (trên 5 mm và những viên gần thận thì ít có khả năng tự đào thải hơn. Một số loại thuốc (tamsulosin hoặc thuốc chẹn kênh canxi) có thể làm tăng khả năng hình thành sỏi.

Giảm đau

Cơn đau quặn thận có thể thuyên giảm khi dùng NSAID. Nếu cơn đau nghiêm trọng, đôi khi cần dùng opioid.

Các chiến lược loại bỏ sỏi

Uống nhiều nước hoặc truyền một lượng lớn dịch lỏng qua đường tĩnh mạch đã được khuyến khích để giúp sỏi đào thải, nhưng không rõ rằng các phương pháp này có hữu ích hay không. Thuốc chẹn alpha-adrenergic (như tamsulosin) có thể giúp thải sỏi. Khi sỏi đã được đào thải, không cần điều trị ngay theo phương pháp nào khác.

Quy trình loại bỏ sỏi

Đôi khi khi tình trạng tắc nghẽn nước tiểu nghiêm trọng, các bác sĩ sẽ luồn một ống (stent) tạm thời vào niệu quản để lấy viên sỏi ra ngoài. Các bác sĩ sử dụng ống soi bàng quang và đưa dụng cụ qua ống soi này và vào lỗ mở của niệu quản. Stent được đẩy lên qua viên sỏi sau đó được giữ nguyên cho đến khi có thể lấy sỏi ra được (ví dụ, bằng phẫu thuật).

Ngoài ra, các bác sĩ có thể dẫn lưu chỗ tắc bằng cách luồn một ống dẫn lưu qua phía sau vào thận 

Loại bỏ sỏi

Thông thường, tán sỏi bằng sóng xung kích có thể được sử dụng để phá vỡ sỏi trong bể thận hoặc phần trên cùng của niệu quản với sỏi có đường kính 1 cm trở xuống. Trong quá trình này, sóng xung kích hướng vào cơ thể bởi một máy phát song sẽ phá vỡ viên sỏi. Các mảnh sỏi sau đó được đào thải qua nước tiểu. Đôi khi, sỏi được lấy ra bằng kẹp gắp và ống nội soi quan sát thông qua một vết rạch nhỏ trên da, hoặc sỏi có thể bị vỡ thành nhiều mảnh nhờ đầu dò từ máy tán sỏi và sau đó các mảnh này được đào thải qua nước tiểu. Đôi khi, tia laser được sử dụng để phá vỡ sỏi. Khi sử dụng tia laser, quy trình này được gọi là tán sỏi bằng laser.

Ống soi niệu quản có thể được đưa vào niệu đạo, qua bàng quang và lên niệu quản để loại bỏ những viên sỏi nhỏ ở phần dưới của niệu quản. Trong một số trường hợp, nội soi niệu quản cũng có thể được sử dụng với một thiết bị để phá vỡ sỏi thành các mảnh nhỏ hơn và có thể lấy sỏi ra bằng ống soi hoặc thải ra ngoài qua nước tiểu (một thủ thuật được gọi là tán sỏi trong cơ thể). Thông thường nhất, phương pháp tán sỏi bằng laser được sử dụng. 

Phương pháp tán sỏi qua da có thể được sử dụng để loại bỏ một số viên sỏi thận lớn. Trong phương pháp này, các bác sĩ rạch một đường nhỏ ở lưng của người bệnh và sau đó đưa ống soi vào thận. Các bác sĩ đưa một đầu dò qua ống soi thận để phá vỡ sỏi thành nhiều mảnh nhỏ hơn và sau đó lấy chúng ra.

Làm cho nước tiểu có tính kiềm hơn (ví dụ, với kali citrate uống trong 4 đến 6 tháng) đôi khi có thể làm tan dần sỏi axit uric. Các loại sỏi khác không thể bị hòa tan theo cách này.

Phẫu thuật loại bỏ sỏi đối với những viên sỏi lớn hơn gây tắc nghẽn.

Phẫu thuật nội soi thường được sử dụng để loại bỏ sỏi struvite. Thuốc kháng sinh không đem lại hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng đường tiết niệu nếu không loại bỏ sỏi hoàn toàn.

Đặt stent niệu quản là đặt một ống rỗng mềm để dẫn nước tiểu từ thận xuống bàng quang. Có thể cần đặt stent niệu quản trong một hoặc hai tuần sau khi thực hiện thủ thuật lấy sỏi. Kích ứng từ sỏi hoặc từ thủ thuật có thể gây ra viêm niệu quản. Stent giúp giải quyết tình trạng viêm nhiễm.

Vài nét về loại bỏ sỏi bằng sóng âm 

Sỏi thận đôi khi có thể bị vỡ bởi sóng âm do máy tán sỏi tạo ra trong một thủ thuật gọi là tán sỏi bằng sóng xung kích ngoài cơ thể 

Sau khi thiết bị siêu âm hoặc kính huỳnh quang được sử dụng để xác định vị trí của viên sỏi, máy tán sỏi được đặt dựa vào lưng người bệnh và sóng âm tập trung vào viên sỏi, làm vỡ viên sỏi. Sau đó người bệnh uống nước để tống các mảnh sỏi ra khỏi thận, đào thải qua nước tiểu.

Đôi khi máu xuất hiện trong nước tiểu hoặc vùng bụng bị bầm tím sau khi làm thủ thuật, nhưng rất hiếm khi xảy ra các vấn đề nghiêm trọng

Elite author
We always feel that we can do better and that our best piece is yet to be written.
Tất cả bài viết
BÀI VIẾT MỚI NHẤT