Khi nào cần xét nghiệm?
Khi bạn bị chảy máu không rõ nguyên nhân, huyết khối bất thường, sẩy thai liên tiếp; hoặc bạn đang điều trị bằng thuốc chống đông máu heparin; hay trước khi phẫu thuật theo hẹn.
Mẫu xét nghiệm
Một mẫu máu được lấy bằng kim từ tĩnh mạch trên cánh tay của bạn
Chuẩn bị
Không có chuẩn bị đặc biệt; tuy nhiên, một bữa ăn giàu chất béo trước khi lấy máu có thể gây trở ngại cho xét nghiệm và bạn nên tránh.
Xét nghiệm thời gian thromboplastin từng phần
Thời gian thromboplastin từng phần (PTT; còn được gọi là thời gian hoạt hóa thromboplastin từng phần (aPTT)) là một xét nghiệm sàng lọc giúp đánh giá khả năng hình thành cục máu đông. Xét nghiệm này đo thời gian (tính bằng giây) cần thiết để hình thành cục máu đông trong một mẫu máu sau khi thêm thuốc thử vào. PTT đánh giá số lượng và chức năng của một số protein trong máu được gọi là các yếu tố đông máu tham gia vào quá trình hình thành cục máu đông.
Khi (các) mô cơ thể hoặc thành mạch máu bị thương, hiện tượng chảy máu sẽ xảy ra và quá trình đông cầm máu bắt đầu. Các mảnh tế bào nhỏ được gọi là tiểu cầu dính vào nhau và sau đó tập hợp tại vị trí tổn thương. Đồng thời, một quá trình được gọi là dòng thác đông máu bắt đầu và các yếu tố đông máu được kích hoạt theo trình tự. Thông qua chuỗi các phản ứng, các sợi được gọi là fibrin hình thành và liên kết chéo thành một mạng lưới bám vào vị trí tổn thương và giúp ổn định vị trí này. Điều này tạo thành một cục máu đông ổn định để bịt kín vết thương ở mạch máu, ngăn ngừa mất máu thêm và giúp khu vực bị tổn thương có thời gian để chữa lành.
Mỗi thành phần của quá trình đông cầm máu này phải hoạt động bình thường và có đủ số lượng để hình thành cục máu. Nếu số lượng của một hoặc nhiều yếu tố quá thấp, hoặc nếu các yếu tố không thể thực hiện đúng chức năng của chúng, thì có thể không hình thành được cục máu đông ổn định và quá trình chảy máu vẫn tiếp tục.
Với PTT, kết quả của bạn được so sánh với khoảng tham chiếu thời gian đông máu bình thường. Khi quá trình đông máu của bạn cần nhiều thời gian hơn bình thường, PTT được coi là “kéo dài”.
Khi PTT được chỉ định để đánh giá tình trạng chảy máu hoặc đông máu, hoặc để loại trừ bệnh lý rối loạn đông cầm máu (ví dụ: đánh giá trước phẫu thuật), xét nghiệm này thường được chỉ định cùng với thời gian prothrombin (PT). Bác sĩ sẽ đánh giá kết quả của cả hai xét nghiệm để loại trừ hoặc xác định nguyên nhân gây rối loạn chảy máu hoặc đông máu.
Giờ đây, người ta hiểu rằng các xét nghiệm đông máu như PT và PTT dựa trên những phản ứng nhân tạo trong phòng xét nghiệm (in vitro) và do đó không nhất thiết phản ánh đúng quá trình thực sự xảy ra trong cơ thể (in vivo). Tuy nhiên, những xét nghiệm này có thể được sử dụng để đánh giá một số thành phần của hệ thống đông cầm máu. Xét nghiệm PTT và PT đều đánh giá các yếu tố đông máu - là các thành phần tham gia vào con đường đông máu nội sinh, ngoại sinh và con đường chung.
- PTT được sử dụng để đánh giá các yếu tố đông máu XII, XI, IX, VIII, X, V, II (prothrombin) và I (fibrinogen) cũng như prekallikrein (PK) và kininogen trọng lượng phân tử cao (HK).
- Xét nghiệm PT đánh giá các yếu tố đông máu VII, X, V, II và I (fibrinogen).
Câu hỏi thường gặp
Chỉ định xét nghiệm
PTT được sử dụng trong trường hợp chảy máu hoặc đông máu bất thường. Xét nghiệm này có thể được chỉ định cùng với thời gian prothrombin (PT/INR) để đánh giá khả năng hình thành cục máu đông giúp cầm máu. Những xét nghiệm này thường là khởi đầu trong đánh giá tình trạng chảy máu quá nhiều hoặc rối loạn đông máu.
Bằng cách đánh giá đồng thời kết quả của hai xét nghiệm, bác sĩ có thể tìm được nguyên nhân gây ra rối loạn đông máu hoặc chảy máu. PTT và PT không giúp chẩn đoán nhưng thường cung cấp thông tin gợi ý cho bác sĩ liệu cần tiến hành các xét nghiệm khác hay không.
Một số ví dụ về việc chỉ định PTT bao gồm:
- Xác định tình trạng thiếu hụt yếu tố đông máu; nếu PTT kéo dài, các đánh giá sâu hơn sau đó có thể được thực hiện nhằm xác định tình trạng thiếu hụt hoặc rối loạn chức năng yếu tố đông máu, hoặc để xác định xem có kháng thể chống lại yếu tố đông máu (được gọi là chất ức chế yếu tố đặc hiệu) trong máu hay không.
- Nhằm phát hiện các tự kháng thể không đặc hiệu (kháng thể kháng phospholipid), chẳng hạn như kháng đông máu lupus; chúng có liên quan đến các đợt đông máu và sẩy thai tái phát. Vì lý do này, xét nghiệm PTT có thể được thực hiện cùng các xét nghiệm khác nhằm đánh giá rối loạn đông máu trong các trường hợp sẩy thai tái phát hoặc chẩn đoán hội chứng kháng phospholipid (APS). Một loại PTT được gọi là PTT nhạy cảm với LA có thể được sử dụng cho mục đích này.
- Theo dõi liệu pháp chống đông máu heparin chuẩn (không phân đoạn); tuy nhiên, một số phòng thí nghiệm hiện nay sử dụng xét nghiệm Anti-Xa để theo dõi liệu pháp heparin. Heparin là loại thuốc chống đông được tiêm vào đường tĩnh mạch (IV) nhằm ngăn ngừa và điều trị cục máu đông (trong thuyên tắc và huyết khối). Sử dụng heparin gây kéo dài PTT. Khi dùng heparin cho mục đích điều trị, phải theo dõi chặt chẽ các chỉ số đông máu. Nếu quá liều, bệnh nhân có thể xuất hiện chảy máu; còn liều quá thấp, bệnh nhân có thể tiếp tục bị đông máu.
- Dựa trên bệnh của người bệnh, PTT và PT đôi khi được thực hiện có chọn lọc trước khi phẫu thuật theo hẹn hoặc các thủ thuật xâm lấn khác nhằm sàng lọc tình trạng chảy máu tiềm ẩn.
Chỉ định khác
PTT có thể được yêu cầu cùng với các xét nghiệm khác (như PT) khi bạn có:
- Chảy máu không rõ nguyên nhân hoặc dễ bị bầm tím
- Cục máu đông trong tĩnh mạch hoặc động mạch
- Một tình trạng cấp tính như đông máu nội mạch lan tỏa (disseminated intravascular coagulation - DIC) có thể gây ra cả chảy máu và đông máu do các yếu tố đông máu bị sử dụng hết với tốc độ nhanh
- Tình trạng mạn tính như bệnh gan có thể ảnh hưởng đến quá trình đông máu
PTT cũng cần thực hiện trong trường hợp:
- Đánh giá chất chống đông máu lupus, kháng thể kháng cardiolipin và hội chứng kháng phospholipid, khi bạn có cục máu đông hoặc khi phụ nữ bị sẩy thai liên tiếp
- Khi bạn chuyển từ liệu pháp heparin sang liệu pháp warfarin (Coumadin®) dài hạn, hai liệu pháp này được sử dụng kết hợp; cả PTT và PT đều được theo dõi cho đến khi bạn ổn định.
- Khi bạn lên lịch phẫu thuật; bạn có thể được xét nghiệm PTT trước khi phẫu thuật nếu phẫu thuật làm tăng nguy cơ mất máu và/hoặc khi bạn có tiền sử chảy máu trên lâm sàng, chẳng hạn như chảy máu mũi thường xuyên hoặc quá nhiều, hay bạn dễ bị bầm tím, điều này có thể cho thấy sự hiện diện của rối loạn chảy máu .
Kết quả xét nghiệm
Kết quả PTT được tính bằng giây.
Kết quả PTT nằm trong khoảng tham chiếu của phòng xét nghiệm thường cho biết khả năng đông máu bình thường. Tuy nhiên, ngay cả với kết quả PTT bình thường, vẫn có thể có thiếu hụt mức độ nhẹ đến trung bình của một yếu tố đông máu đơn lẻ. PTT có thể bình thường cho đến khi nồng độ các yếu tố đã giảm xuống 30% đến 40% bình thường. Mặt khác, chất chống đông máu lupus có thể tồn tại nhưng chưa đủ để gây PTT kéo dài. Nếu nghi ngờ chất chống đông máu lupus (LA), có thể sử dụng PTT nhạy cảm với LA hoặc test pha loãng thời gian nọc độc của viper Russell (dilute Russell viper venom time - DRVVT) để xét nghiệm.
PTT kéo dài có nghĩa là quá trình đông máu diễn ra lâu hơn bình thường và có thể do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như:
- Các tình trạng gây ra giảm các yếu tố đông máu, chẳng hạn như:
- Bệnh gan - hầu hết các yếu tố đông máu được sản xuất bởi gan, do đó bệnh gan có thể gây ra PT và PTT kéo dài. Tuy nhiên, PT thường kéo dài hơn PTT.
- Thiếu vitamin K - vitamin K cần thiết cho tổng hợp một số yếu tố đông máu. Ví dụ, tình trạng thiếu hụt vitamin K có thể do chế độ ăn uống thiếu hụt, rối loạn hấp thu hoặc sử dụng một số loại kháng sinh kéo dài. PT có nhiều khả năng bị kéo dài hơn là PTT.
- Thiếu hụt yếu tố đông máu di truyền ít phổ biến hơn:
- Bệnh von Willebrand (vWD) là rối loạn chảy máu di truyền phổ biến nhất và nó ảnh hưởng đến chức năng tiểu cầu do giảm yếu tố von Willebrand. PTT là bình thường trong hầu hết các trường hợp mắc bệnh nhưng có thể kéo dài ở bệnh nhân mắc bệnh nặng.
- Hemophilia A và hemophilia B (bệnh Christmas) là hai chứng rối loạn chảy máu di truyền khác do giảm lần lượt các yếu tố VIII và IX.
- Thiếu hụt các yếu tố đông máu khác, như yếu tố XII và XI. Thiếu hụt XI có thể gây chảy máu bất thường, nhưng thiếu XII không liên quan đến tăng nguy cơ chảy máu trong cơ thể.
- Một chất ức chế không đặc hiệu như chất chống đông máu lupus— đây là một tự kháng thể (kháng thể kháng phospholipid) ảnh hưởng tới kết quả PTT vì chất này gắn vào phospholipid - được sử dụng trong PTT. Mặc dù có thể gây PTT kéo dài, nhưng thực tế trong cơ thể chúng có liên quan đến quá trình đông máu. Người có các kháng thể này có nguy cơ cao hơn hình thành cục máu đông trong cơ thể.
- Một chất ức chế đặc hiệu - mặc dù tương đối hiếm, đây là những kháng thể nhắm vào các yếu tố đông máu nhất định (được gọi là chất ức chế yếu tố đặc hiệu), ảnh hưởng đến hoạt động của các yếu tố này. Một ví dụ là kháng thể nhắm vào yếu tố VIII. Thuốc ức chế yếu tố đặc hiệu có thể gây chảy máu nghiêm trọng.
- Heparin — là một chất chống đông máu và sẽ gây PTT kéo dài, dù là chất chống đông ở thành ống nghiệm hoặc là thuốc bệnh nhân dùng. Đối với liệu pháp chống đông máu, PTT mục tiêu thường dài hơn khoảng 1,5 đến 2,5 lần so mức trước điều trị. PTT vẫn đang được sử dụng để theo dõi điều trị liệu pháp heparin tiêu chuẩn.
- Liệu pháp chống đông máu bằng Warfarin (Coumadin®) — PTT không được sử dụng để theo dõi liệu pháp warfarin, nhưng PTT có thể kéo dài nếu sử dụng warfarin ở liều cao. Thông thường, thời gian prothrombin/tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế (PT/INR) được sử dụng để theo dõi liệu pháp warfarin.
- Thuốc chống đông máu khác — liệu pháp chống đông máu với chất ức chế thrombin trực tiếp (ví dụ, argatroban, dabigatran) hoặc chất ức chế yếu tố Xa trực tiếp (ví dụ, rivaroxaban, apixaban)
- PTT kéo dài cũng có thể gặp ở một số bệnh bạch cầu, chảy máu quá nhiều ở phụ nữ mang thai trước hoặc sau khi sinh hoặc sẩy thai liên tiếp.
Kết quả của PTT thường được xem xét cùng với kết quả của PT trong việc xác định rối loạn đông máu có thể có.
Kết quả PT | Kết quả PTT | Bệnh thường gặp |
Kéo dài | Bình thường | Bệnh gan, thiếu hụt vitamin K, giảm hoặc khiếm khuyết yếu tố VII, đông máu nội mạch rải rác mạn tính, warfarin hoặc chất đối kháng vitamin K khác (ví dụ, brodifacoum trong một số cannabinoid) |
Bình thường | Kéo dài | Hemophilia A hoặc B (giảm hoặc khiếm khuyết yếu tố VIII hoặc IX), hoặc thiếu hụt yếu tố XI, bệnh von Willebrand (thể nặng), thiếu hụt yếu tố XII, hoặc hiện có chất chống đông máu lupus |
Kéo dài | Kéo dài | Giảm hoặc khiếm khuyết yếu tố I (fibrinogen), II (prothrombin), V hoặc X, bệnh gan nặng, đông máu nội mạch rải rác cấp tính |
Bình thường | Bình thường hoặc kéo dài nhẹ | Có thể quá trình đông máu bình thường; tuy nhiên, PT và PTT có thể bình thường trong các tình trạng như thiếu hụt mức độ nhẹ các yếu tố đông máu khác và dạng nhẹ của bệnh von Willebrand. Có thể cần các xét nghiệm khác để chẩn đoán các tình trạng này. |
PTT ngắn hơn bình thường có thể do:
- Đông máu nội mạch lan tỏa (Disseminated intravascular coagulation - DIC) —trong giai đoạn đầu của DIC, có những chất đông máu lưu hành làm rút ngắn PTT.
- Ung thư giai đoạn cuối (buồng trứng, tuyến tụy, ruột kết), ngoại trừ trường hợp có liên quan đến gan
- Phản ứng ở giai đoạn cấp tính: đây là tình trạng gây viêm hoặc chấn thương mô rộng làm tăng đáng kể nồng độ yếu tố VIII. Tình trạng này thường là một thay đổi tạm thời không được theo dõi bằng PTT. Khi căn nguyên gây ra phản ứng giai đoạn cấp tính được giải quyết, PTT trở lại bình thường.
PTT nhạy cảm với LA là gì và nó khác với PTT thông thường như thế nào?
PTT nhạy cảm với LA (LA-PTT hoặc PTT-LA) là một loại PTT, được sử dụng nhằm đánh giá sự hiện diện của chất chống đông máu lupus (lupus anticoagulant - LA), một kháng thể liên quan đến các đợt đông máu và sẩy thai tái phát. LA-PTT sử dụng thuốc thử phospholipid hàm lượng thấp được tối ưu hóa để phát hiện chất chống đông máu lupus và do đó nhạy cảm hơn với LA. Xét nghiệm dựa trên nguyên tắc là chất chống đông máu lupus liên kết với các phospholipid được sử dụng như một trong những chất phản ứng trong xét nghiệm PTT, gây ra thời gian đông máu kéo dài bất thường.
Ngoài PTT, những xét nghiệm nào khác có thể được thực hiện?
Xét nghiệm khác có thể được thực hiện cùng với PTT hoặc theo dõi chức năng đông máu bao gồm:
- Số lượng tiểu cầu - phải luôn được theo dõi trong khi điều trị bằng heparin để phát hiện kịp thời giảm tiểu cầu do heparin
- Xét nghiệm thời gian thrombin - đôi khi được chỉ định để loại trừ quá liều heparin
- Xét nghiệm fibrinogen - có thể được thực hiện để loại trừ giảm fibrinogen - là nguyên nhân gây ra PTT kéo dài
- Khi thời gian PTT lần đầu kéo dài, xét nghiệm PTT thứ hai được thực hiện trên mẫu trộn huyết tương của bệnh nhân với huyết tương người bình thường (tập hợp huyết tương từ một số người hiến tặng bình thường). Nếu thời gian PTT trở lại bình thường, nó cho thấy sự thiếu hụt một hoặc nhiều yếu tố đông máu trong huyết tương của người bệnh. Nếu thời gian PTT vẫn kéo dài, thì vấn đề có thể là do sự hiện diện của chất ức chế yếu tố đặc hiệu bất thường (tự kháng thể) hoặc chất ức chế không đặc hiệu, chẳng hạn như chất chống đông máu lupus.
- Các xét nghiệm về yếu tố đông máu - những xét nghiệm này đo lường hoạt động (chức năng) của các yếu tố đông máu. Chúng có thể phát hiện giảm nồng độ hoặc giảm chất lượng của các protein. Đôi khi, lượng kháng nguyên của một yếu tố đông máu cũng có thể được đo lường.
- Xét nghiệm pha loãng thời gian nọc độc của viper Russell (Pha loãng thời gian nọc độc của viper Russell - DRVVT) - có thể được thực hiện nếu nghi ngờ sự hiện diện của chất chống đông máu lupus.
- Yếu tố von Willebrand - đôi khi được chỉ định nhằm xác định bệnh von Willebrand (mức độ nặng) có phải là nguyên nhân của PTT kéo dài hay không.
PTT có luôn được sử dụng nhằm theo dõi điều trị liệu pháp heparin không?
Trong một số tình huống, không sử dụng PTT để theo dõi, đó là:
- Khi sử dụng heparin liều rất cao, có thể diễn ra trong phẫu thuật tim hở, PTT mất độ nhạy; máu sẽ không đông. Khi ấy, thời gian đông máu hoát hóa (activated clotting time - ACT) có thể được sử dụng như một công cụ theo dõi.
- Một số bệnh viện hiện đang theo dõi điều trị liệu pháp heparin chuẩn (không phân đoạn) bằng cách sử dụng xét nghiệm kháng yếu tố Xa thay cho PTT.
- Heparin trọng lượng phân tử thấp là một dạng heparin tác dụng nhanh thường được sử dụng trong điều trị phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch sâu. Mặc dù nói chung không yêu cầu theo dõi, nó phải được theo dõi bằng xét nghiệm kháng yếu tố Xa vì heparin trọng lượng phân tử thấp thường không kéo dài PTT.
- Đối với những người có chất chống đông lupus và đang điều trị bằng heparin, PTT không đáng tin cậy; do đó xét nghiệm kháng yếu tố Xa phải được sử dụng để theo dõi điều trị heparin.
Làm cách nào để thay đổi kết quả PTT?
PTT không phải là chỉ số bạn có thể thay đổi thông qua thay đổi lối sống (trừ khi bạn bị thiếu vitamin K). Xét nghiệm này phản ánh chức năng của hệ thống đông máu. Nếu PTT kéo dài do thiếu hụt yếu tố đông máu mắc phải, thì giải quyết nguyên nhân có thể đưa kết quả về mức gần như bình thường. Nếu PTT kéo dài do vấn đề cấp tính hoặc tạm thời, kết quả sẽ trở lại bình thường khi căn nguyên được giải quyết. Các bất thường hoặc thiếu hụt về yếu tố đông máu do di truyền cần được theo dõi chặt chẽ và có thể được điều trị bằng phương pháp truyền tĩnh mạch yếu tố đông máu bị thiếu định kỳ.
Có vấn đề nào khác bạn nên biết không?
Hai thuốc chống đông máu thường được sử dụng, heparin trọng lượng phân tử thấp và danaparoid, có thể không gây PTT kéo dài và nếu được chỉ định, cần được theo dõi bằng xét nghiệm kháng yếu tố Xa.
Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả của PTT:
- Những người có nồng độ hematocrit cao có thể PTT kéo dài giả.
- Quá liều heparin - đây là vấn đề phổ biến nhất, đặc biệt là khi lấy máu từ đường truyền tĩnh mạch được truyền heparin.
- Các loại thuốc như thuốc kháng histamine, vitamin C (axit ascorbic), aspirin và chlorpromazine
- Trong một số trường hợp, heparin có thể vô tình làm giảm số lượng tiểu cầu gây ra biến chứng được gọi là giảm tiểu cầu do heparin. Khi điều này xảy ra, có thể dùng thuốc chống đông máu thay thế như chất ức chế thrombin trực tiếp (ví dụ, argatroban hoặc bivalirudin). Xét nghiệm PTT cũng có thể được sử dụng để theo dõi các liệu pháp này. Nó không trực tiếp đo lường các thuốc chống đông máu nhưng đo lường tác động của chúng đối với quá trình đông máu.
Xem thêm: