CEA là một kháng nguyên được tìm thấy trên riềm bàn chải của đại tràng, trực tràng, dạ dày và các loại tế bào ung thư khác. Nồng độ CEA cao có thể được phát hiện trong máu của một số bệnh nhân ung thư và thai nhi đang phát triển. CEA được định lượng trong máu và giới hạn bình thường là dưới 2,5 ng / ml ở người trưởng thành không hút thuốc và dưới 5,0 ng / ml ở người hút thuốc. ...

Các loại ung thư phổ biến nhất làm tăng CEA là ung thư đại trực tràng nhưng nó cũng có thể tăng trong ung thư dạ dày, buồng trứng và các bệnh ung thư khác. Xét nghiệm CEA thường được sử dụng nhất để theo dõi sau điều trị ung thư đại tràng và có thể được thay thế bằng ctDNA theo thời gian.

Nguyên nhân gây tăng CEA


Loại ung thư thường gặp nhất gây tăng CEA là ung thư đại trực tràng. Các nguyên nhân khác có thể làm tăng CEA như hút thuốc, nhiễm trùng, bệnh viêm ruột, viêm tụy, xơ gan và một số khối u lành tính 

Điều đó có nghĩa là gì nếu nồng độ CEA trong máu tăng cao?

CEA là một loại protein thường được tìm thấy trong tế bào thai nhi đang phát triển. Nồng độ protein này trong máu sẽ biến mất hoặc giảm xuống rất thấp sau khi sinh. Ở người lớn, nồng độ cao bất thường có thể là dấu hiệu của ung thư.

CEA có trở lại bình thường sau khi loại bỏ ung thư không?

Hầu hết những người khỏe mạnh có nồng độ CEA dưới 2,5 ng / ml. Nồng độ CEA thường trở về giới hạn bình thường trong khoảng 1 - 4 tháng sau khi điều trị ung thư triệt căn.

CEA có thể tăng cao mà không bị ung thư không?

Nồng độ CEA và CA 19-9 có thể tăng cao ở những người không bị ung thư. Trên thực tế, các nghiên cứu cho thấy những chất này có thể tăng giả ở 50% bệnh nhân ung thư đại tràng sau khi điều trị dẫn đến những lo lắng và kiểm tra không cần thiết.

Nồng độ CEA có thể tăng lên khi điều trị hóa trị liệu không?

CEA "bùng phát" trong quá trình hóa trị không có nghĩa là ung thư đang tiến triển. Những bệnh nhân ung thư có kết quả xét nghiệm CEA trong máu tăng khi bắt đầu hóa trị và sau đó giảm dần sẽ có tiên lượng tốt hơn những bệnh nhân có CEA tăng liên tục.

Ý nghĩa của xét nghiệm CEA


Trước đây, vai trò chính của xét nghiệm CEA là theo dõi sau điều trị ung thư đại trực tràng cùng với thăm khám lâm sàng và chụp CT / PET. Nồng độ CEA tăng cao có thể cho thấy ung thư tái phát sớm hơn so với phát hiện trên PET / CT, tuy nhiên điều này không cải thiện khả năng sống cho người bệnh. Hơn nữa, nồng độ CEA cao có thể xảy ra sai lệch dẫn đến lo lắng đáng kể và các xét nghiệm không cần thiết để tìm kiếm sự tái phát không tồn tại của bệnh ung thư.

Các nghiên cứu đã chỉ ra điều gì?


Dưới đây là một số nghiên cứu chính đã giúp xác định vai trò của CEA. Theo ý kiến của nhóm biên tập Kết nối ung thư, cần sử dụng như một dấu ấn sinh học tốt nhất để đánh giá nguy cơ tái phát ung thư vì nó vừa nhạy hơn vừa đặc hiệu hơn CEA.

Xét nghiệm CEA có thể cải thiện điều trị cho hơn 1/6 bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn 2 và nhiều bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ xét nghiệm này.

Sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu ung thư quốc gia cho 40.844 bệnh nhân, các bác sĩ và nhà khoa học của Phòng khám Mayo đã hợp tác để xem xét lợi ích của việc định lượng CEA.

Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng việc biết kết quả xét nghiệm CEA trước khi điều trị có thể đã thay đổi phân loại cho 17% bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn 2 từ nguy cơ trung bình thành nguy cơ cao. Bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn 2 có nguy cơ cao có thể được hưởng lợi từ điều trị hóa trị sau phẫu thuật.

Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng, đối với những bệnh nhân giai đoạn 2 được phẫu thuật nhưng không được hóa trị, tỷ lệ sống sót sau 5 năm là lần lượt là 66% đối với những người có nồng độ CEA cao và 76% đối với những người không có nồng độ cao. Và đối với những bệnh nhân có lượng kháng nguyên này cao, nếu được hóa trị và phẫu thuật thì tiên lượng sẽ tốt hơn những người chỉ phẫu thuật.

Nồng độ CEA liên quan đến khả năng sống sót và tái phát trong ung thư dạ dày giai đoạn sớm

Theo kết quả được trình bày trên Tạp chí Ung thư Anh, nồng độ CEA được tìm thấy trong dịch rửa màng bụng hoặc máu là dấu hiệu cho thấy ung thư tái phát và khả năng sống sót ở những bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn sớm.

Mặc dù ung thư có thể được loại bỏ hoàn toàn ở những bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn sớm nhưng một phần đáng kể bệnh nhân sẽ bị tái phát ung thư và cuối cùng không thể chống chọi được với căn bệnh này. Một cơ quan mà ung thư thường tái phát là khoang phúc mạc. Tiên lượng sống lâu dài ở những bệnh nhân bị tái phát ung thư vẫn kém hơn những người được điều trị bằng liệu pháp ban đầu. Các nhà nghiên cứu đã và đang đánh giá các cách dự đoán nguy cơ tái phát ung thư ở bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn sớm. Những người có nguy cơ tái phát thấp hơn có thể tiến hành các phương pháp điều trị tiêu chuẩn trong khi những người có nguy cơ cao hơn có thể lựa chọn các chiến lược điều trị tích cực hơn hoặc tham gia thử nghiệm lâm sàng.

Các nhà nghiên cứu từ Nhật Bản đã đánh giá nồng độ CEA từ khoang phúc mạc (bệnh phẩm là dịch rửa phúc mạc) ở những bệnh nhân ung thư dạ dày. Thử nghiệm này bao gồm 86 bệnh nhân bị ung thư dạ dày giai đoạn sớm đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn khối u. Bệnh nhân được theo dõi trong khoảng 30 tháng. Kết quả cho thấy mối quan hệ giữa nồng độ CEA và sự tái phát ung thư:

  • Bệnh nhân có nồng độ CEA cao hơn có tỷ lệ tái phát ung thư trong khoang phúc mạc cao hơn đáng kể so với những bệnh nhân có mức CEA bình thường hoặc thấp hơn.
  • Những bệnh nhân có nồng độ CEA cao hơn có tỷ lệ tử vong cao hơn đáng kể so với những bệnh nhân có mức CEA bình thường hoặc thấp hơn.

Các nhà nghiên cứu cũng đã phân tích mẫu máu của những bệnh nhân được chẩn đoán mắc ung thư dạ dày, những người đã điều trị khỏi căn bệnh này bằng phẫu thuật. Một loạt các xét nghiệm máu để định lượng CEA và phân tích cấu tạo gen của bệnh nhân được thực hiện định kì 2 tháng 1 lần. Các phân tích cho thấy tỷ lệ tái phát trên lâm sàng được xác định chính xác trong một khoảng thời gian.

Tầm soát chuyên sâu hơn giúp cải thiện khả năng sống tổng thể ở những bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II

Theo một bài báo đăng trên Tạp chí Ung thư Lâm sàng, việc tầm soát chuyên sâu hơn cho đến năm thứ 5 sau khi điều trị ở những bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II giúp cải thiện khả năng sống so với chiến lược tầm soát đơn giản hơn.

Các nhà nghiên cứu từ Tây Ban Nha đã tiến hành một thử nghiệm để so sánh các lịch trình theo dõi khác nhau giữa các bệnh nhân đã được chẩn đoán và điều trị ung thư đại tràng giai đoạn II hoặc III.

Thử nghiệm này bao gồm 259 bệnh nhân: 132 bệnh nhân trải qua một chiến lược theo dõi đơn giản bao gồm thăm khám lâm sàng và định lượng nồng độ CEA trong máu, 127 bệnh nhân trải qua chiến lược giám sát chuyên sâu hơn bao gồm chụp cắt lớp vi tính ổ bụng hoặc siêu âm, chụp X-quang ngực và nội soi bên cạnh thăm khám lâm sàng và định lượng nồng độ CEA.

Bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II đã cải thiện kết quả với một chiến lược giám sát chuyên sâu:

  • Sau thời gian theo dõi trung bình 4 năm, không có sự khác biệt về khả năng sống giữa các bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn III.
  • Không có sự khác biệt về thời gian trước khi ung thư tái phát và loại ung thư tái phát giữa hai nhóm sàng lọc.
  • Bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II đã cải thiện thời gian sống khi được sàng lọc chuyên sâu so với sàng lọc đơn giản (tương ứng là 81,6 tháng và 70,9 tháng).
  • Bệnh nhân ung thư trực tràng được cải thiện khả năng sống khi sàng lọc chuyên sâu so với sàng lọc đơn giản.
  • 51% bệnh nhân được sàng lọc chuyên sâu có thể loại bỏ hoàn toàn sự tái phát ung thư, so với chỉ 29% bệnh nhân được sàng lọc đơn giản.

Mặc dù sàng lọc chuyên sâu đắt hơn so với sàng lọc đơn giản, nhưng phẫu thuật đối với những trường hợp tái phát lại đắt hơn ở những người được sàng lọc đơn giản.

Các nhà nghiên cứu kết luận rằng một chiến lược tầm soát chuyên sâu hơn giúp cải thiện khả năng sống tổng thể ở những bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II hơn là chiến lược sàng lọc đơn giản hơn. Vẫn chưa thống nhất được về quy trình sàng lọc chính xác cho bệnh nhân ung thư đại tràng, những kết quả này có thể cung cấp thông tin quan trọng về việc thiết lập các hướng dẫn tầm soát tiếp theo đối với ung thư đại tràng giai đoạn II. Bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn II có thể trao đổi với bác sĩ về các khuyến nghị theo dõi bệnh của họ.

CT kết hợp với chất chỉ điểm u có thể phát hiện tái phát ung thư đại trực tràng sớm hơn so với từng phương pháp riêng lẻ. 

Chụp ct ổ bụng. Nguồn ảnh: myUpcharChụp ct ổ bụng. Nguồn ảnh: myUpchar

Theo một bài báo gần đây trên Tạp chí Ung thư của Anh, nồng độ các chất chỉ điểm u kết hợp với kết quả chụp cắt lớp vi tính (CT) đã dự đoán sự tái phát của ung thư sớm hơn so với một trong hai phương pháp trên ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn gan đã được phẫu thuật cắt bỏ.

Ung thư đại trực tràng rất hay di căn gan. Việc phẫu thuật cắt bỏ khối di căn gan mang lại hy vọng chữa khỏi lớn nhất cho những bệnh nhân này; tuy nhiên, khả năng sống sót lâu dài vẫn không có lợi vì phần lớn những bệnh nhân này sẽ bị tái phát ung thư.

Nói chung, kết quả của những đợt tái phát ung thư được phát hiện và điều trị ở giai đoạn sớm có kết quả tốt hơn khi điều trị ở giai đoạn muộn. Do đó, việc theo dõi chính xác nhất sự tái phát ở những bệnh nhân đã phẫu thuật cắt bỏ di căn gan có thể mang lại hiệu quả tối ưu cho những bệnh nhân này.

Các chất chỉ điểm khối u có thể được phát hiện trong máu. Những chất này thường tăng lên khi có sự tồn tại hoặc sự tái phát của ung thư. CEA và CA 19-9 là 2 kháng nguyên có thể phát hiện ung thư đại trực tràng. Ngoài ra, chụp CT cũng được sử dụng để theo dõi các đợt tái phát ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng. Các nhà nghiên cứu tiếp tục tìm kiếm những phương pháp chính xác nhất phát hiện sự tái phát của ung thư đại trực tràng để có thể điều trị sớm.

Các nhà nghiên cứu từ London đã tiến hành một thử nghiệm lâm sàng để đánh giá hiệu quả của xét nghiệm định lượng CEA, CA 19-9 và chụp CT trong việc theo dõi các đợt tái phát ở bệnh nhân ung thư đại trực tràng. Thử nghiệm này bao gồm 76 bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt bỏ khối di căn gan. Các bệnh nhân thực hiện xét nghiệm CEA, CA 19-9 và chụp CT 3 tháng một lần sau khi phẫu thuật trong 2 năm và 6 tháng một lần trong những năm tiếp theo.

  • 49% (37 bệnh nhân) tái phát ung thư.
  • Trong số 37 bệnh nhân bị tái phát, chụp CT cho thấy có sự tái phát mặc dù các chất chỉ điểm u bình thường ở 19 bệnh nhân.
  • Trong số những bệnh nhân bị tái phát, chất chỉ điểm u phát hiện bệnh tái phát mặc dù chụp CT bình thường ở 12 bệnh nhân.
  • Kết quả từ cả chụp CT và chất chỉ điểm khối u đã cải thiện đáng kể độ chính xác trong việc phát hiện sớm các đợt tái phát, so với 1 trong 2 phương pháp.

Các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự kết hợp giữa chất chỉ điểm u và chụp CT có vẻ giúp cải thiện khả năng phát hiện các đợt tái phát sớm hơn so với 1 trong 2 phương pháp trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng đã trải qua phẫu thuật di căn gan.

Bệnh nhân đã phẫu thuật di căn gan nên trao đổi với bác sĩ về lịch trình theo dõi thích hợp nhất để phát hiện bệnh tái phát.

Nồng độ CEA và Albumin liên quan đến khả năng sống sót trong ung thư đại trực tràng. Theo một bài báo gần đây được công bố trên Tạp chí Tiêu hóa lâm sàng, nồng độ CEA và albumin (ALB) có liên quan đến khả năng sống của những bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm.

Nồng độ tăng cao của CEA trong máu có thể là dấu hiệu của sự hiện diện hoặc di căn ung thư đại tràng. Albumin cũng là một loại protein có thể định lượng được và chỉ ra mức độ hoạt động của ung thư. Các nhà nghiên cứu vẫn đang đánh giá nồng độ CEA, ALB và mối liên quan giữa chúng với kết quả ở bệnh nhân ung thư.

Các nhà nghiên cứu gần đây đã đánh giá dữ liệu để xác định mối quan hệ của nồng độ CEA và ALB trước khi điều trị ở bệnh nhân ung thư đại tràng giai đoạn sớm. Nghiên cứu này bao gồm 170 bệnh nhân được chia thành 4 nhóm: 1) Nồng độ CEA thấp và ALB cao; 2) Nồng độ CEA thấp và ALB thấp; 3) Nồng độ CEA cao và ALB cao; 4) Nồng độ CEA cao và ALB thấp.

Tỷ lệ sống sau 5 năm là 66% đối với nhóm 1, 63% đối với nhóm 2, 46% đối với nhóm 3 và 34% đối với nhóm 4.

Các nhà nghiên cứu kết luận rằng nồng độ CEA và ALB trước khi điều trị có liên quan đáng kể đến tiên lượng sống lâu dài ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng giai đoạn sớm. Những kết quả này bổ sung nhiều bằng chứng cho thấy bệnh ung thư cụ thể và các đặc điểm của bệnh nhân có thể ảnh hưởng lớn đến kết quả ở những bệnh nhân ung thư đại trực tràng sớm. Những phát hiện này có thể hỗ trợ việc điều trị cá nhân cho những bệnh nhân này.

Elite author
We always feel that we can do better and that our best piece is yet to be written.
Tất cả bài viết
BÀI VIẾT MỚI NHẤT