Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống là một nhóm các dấu hiệu lâm sàng tạo ra do kích hoạt toàn bộ hệ thống miễn dịch của cơ thể, là một cơ chế tự bảo vệ của cơ thể trước các tổn thương không đặc hiệu như kích thích hóa học, chấn thương hoặc là nhiễm trùng.
Ý tưởng sâu xa của việc xác định hội chứng đáp ứng viêm toàn thân là để xác định đáp ứng lâm sàng với một thương tổn không đặc hiệu do nhiễm trùng hoặc không. SIRS là một chuỗi các đáp ứng viêm của cơ thể, nhưng không hoàn toàn trùng khớp với khái niệm nhiễm khuẩn huyết (Sepsis). Nhiễm khuẩn huyết do nhiễm trùng gây ra, trong khi SIRS có thể là biểu hiện của nhiễm trùng, hoặc không phải do nhiễm trùng. SIRS hiểu đơn giản là một nhóm các triệu chứng xảy ra bởi một hệ thống các cơ quan trong cơ thể. SIRS có thể có kèm theo suy tạng hoặc chưa có suy tạng.
Trong điều trị lâm sàng, việc đánh giá tình trạng suy tạng cũng như các đáp ứng khác của cơ thể đối với các tổn thương là quan trọng. Và các nhà lâm sàng khi xác định có SIRS, sẽ tiến hành đánh giá mức độ suy tạng thông qua thang điểm qSOFA hoặc SOFA, để từ đó chẩn đoán Sepsis (nhiễm khuẩn huyết). Việc chẩn đoán đúng và đánh giá hết một tình trạng bệnh nặng sẽ cho phép điều trị có hiệu quả, cải thiện tiên lượng bệnh về sau.
Triệu chứng
Hình: Sốt là một dấu hiệu có thể gặp trong hội chứng đáp ứng viêm hệ thống. Nguồn: OSF Health Care
Đáp ứng viêm toàn thân được thể hiện qua một nhóm các triệu chứng lâm sàng và trên xét nghiệm:
Rối loạn thân nhiệt : Sốt (thân nhiệt > 380C), hoặc hạ thân nhiệt (< 360C)
Nhịp tim > 90 lần/phút
Nhịp thở > 25 lần/phút, hoặc PaCO2 < 32mmHg
Xét nghiệm máu: Số lượng bạch cầu > 12 G/L, hoặc < 4 G/L, hoặc có tăng bạch cầu non lứa tuổi trung gian dòng hạt trong máu > 10%.
Nguyên nhân
Có rất nhiều nguyên nhân gây SIRS do nhiễm trùng và không nhiễm trùng.
Một số nguyên nhân nhiễm trùng gây ra SIRS:
Nhiễm khuẩn máu, nhiễm khuẩn trong bỏng, nhiễm nấm candida, viêm tổ chức dưới da, viêm túi mật, viêm phổi cộng đồng, nhiễm khuẩn bàn chân trong đái đường, erysipelas, viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, cúm, nhiễm khuẩn khoang bụng (viêm túi thừa, viêm ruột thừa), hoại thư sinh hơi, viêm màng não mủ, viêm phổi trong bệnh viện, viêm đại tràng giả mạc, viêm thận bể thận, viêm khớp mủ, nhiễm khuẩn tiết niệu, hội chứng sốc độc tố,…
Một số nguyên nhân không nhiễm trùng gây ra SIRS:
Thiếu máu mạc treo cấp, các rối loạn miễn dịch, bỏng, hít phải hoá chất, xơ gan, mất nước, phản ứng thuốc, tổn thương do điện, phát ban đa dạng, sốt xuất huyết, thủng ruột, tác dụng phụ của thuốc ( theophylline), nhồi máu cơ tim, viêm tuỵ cấp, lạm dụng chất gây nghiện (cocaine, amphetamin), các thủ thuật ngoại khoa, hoại tử bong da nhiễm độc (toxic epidermal necrolysis), phản ứng truyền máu, viêm mạch máu,…
Chẩn đoán
Việc chẩn đoán có tiêu chuẩn rõ ràng, áp dụng dành cho các bác sĩ lâm sàng. Bệnh nhân được chẩn đoán có SIRS khi có đủ 2 trong 4 dấu hiệu kể trên (mục 2), trong đó bắt buộc có tiêu chí thân nhiệt, hoặc số lượng bạch cầu máu ngoại vi.
Nếu chẩn đoán SIRS, bác sĩ sẽ tiến hành các đánh giá chuyên sâu khác, làm thêm các bước xét nghiệm chuyên sâu giúp đánh giá tình trạng bệnh.
Điều trị
Hình: Điều trị hội chứng đáp ứng viêm hệ thống tùy thuộc vào điều trị bệnh chính. Nguồn: Doctor Check
SIRS không phải là một bệnh lý cụ thể. SIRS là một nhóm các đáp ứng của cơ thể với tổn thương không đặc hiệu do nhiều bệnh lý khác gây ra. Do vậy, việc điều trị tình trạng này sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh.
Nếu SIRS là một đáp ứng của cơ thể đối với nhiễm trùng, các bác sĩ sẽ tiến hành các xét nghiệm chuyên sâu để đánh giá tình trạng nhiễm trùng nặng, căn nguyên nhiễm trùng, tình trạng suy tạng. Việc điều trị nhiễm trùng tại chỗ và nhiễm trùng huyết bao gồm điều trị kháng sinh và các điều trị hỗ trợ. Các kháng sinh được lựa chọn sẽ ưu tiên chọn theo kháng sinh đồ, kết quả cấy máu. Trong trường hợp cấy máu âm tính, sẽ lựa chọn kháng sinh bao vây, dựa trên các phổ vi khuẩn hiện hành tại địa phương, khu vực đó. Đối với các nhiễm trùng tiên phát như áp xe, viêm ruột thừa, viêm phúc mạc, cần tiến hành phẫu thuật để loại bỏ ổ nhiễm trùng.
Các điều trị hỗ trợ sẽ phụ thuộc vào các biến chứng của bệnh chính. Ví dụ, viêm phổi có suy hô hấp có thể cần các biện pháp hô hấp hỗ trợ: thở máy, thở oxy dòng cao,…
Đối với trường hợp SIRS không do nhiễm trùng, việc điều trị tình trạng này cũng gắn liền với việc kiểm soát bệnh chính. Ví dụ: Bỏng nặng gây sốc, việc điều trị tình trạng SIRS sẽ cần với các biện pháp hồi sức, truyền dịch, vận mạch, ghép da, kháng sinh dự phòng, giảm đau.